Tôi
đây, thật chẳng muốn kình-chống các thể-chế Giáo-hội, chút nào hết. Bởi, họ
cũng là con người như mọi người. Họ, lại là thể-chế lịch-sử xưa nay từng dính-dự/hoạt-động
cho sự lành-thánh của tín-hữu Đức Kitô, thôi. Và, bà con ta đều nhận ra chuyện
này trong các thư-từ viết vào thời hậu-Phaolô, đấy chứ.
Thể-chế
lịch-sử nói ở đây, đặt nền-tảng trên sự/việc bảo rằng: ta có Giáo-hội của Đức
Chúa. Nhưng, thể-chế nền-tảng như thế, là loại-hình thể-chế rất hoạt-động của
con người. Chẳng hạn, ta không thể bảo: chư vị Giám-mục, linh-mục, phó-tế tất cả
đều là thể-chế do Đức Kitô lập. Các ngài là sự biến-hoá, vẫn còn diễn-tiến đến
bây giờ.
Có
sự thể, là: khởi từ hậu bán thế-kỷ thứ hai, ta có hàng Giám-mục, linh-mục và
phó-tế vẫn như thế đến hôm nay. Các vị, chính là hoa/trái của sự biến-hoá rất hợp
pháp, tích-cực. Nhưng, tôi không thấy lý-do tại sao các vị này lại không thể đổi
thay như nhóm người khác.
Trong
lúc Công Đồng Triđentinô qui-chiếu về
vấn-đề này, thì tài-liệu Công Đồng
Vatican 2 chứng-minh cho thấy Công Đồng
không đả-động gì đến công-cuộc thừa tác vốn là thể-chế đích-thực, do Đức
Kitô lập. Chính Công Đồng Triđentinô từng
sử-dụng thành-ngữ “sự việc do thần-thiêng sắp xếp”, hay nói khác đi, thì: các vị
đã tiến-hoá theo cung-cách lịch-sử, do hành-xử của Thiên-Chúa mà ra.
Công Đồng Triđentinô đã chỉnh-sửa thành-ngữ
“do thể-chế thần-thiêng mà có”, và chỉ thích chọn cụm-từ “do bậc thần-thánh sắp
xếp”. Trong khi đó, Công Đồng Vatican 2 lại
chọn thành-ngữ thứ ba, là: “ab antique”,
tức: có tự thời xưa/cũ, là bởi vì hệ-cấp Giáo-hội phát-âm rõ-ràng như thế, cốt
ăn khớp với luật-lệ ngoài đời mang tính xã-hội-học, mà thôi.
Không
còn nghi-ngờ gì, xem như thế: đã có nối-kết với Đức Kitô lịch-sử, rồi. Nhà
chú-giải Tin Mừng nổi tiếng là ông Descamps
đã biện-bạch rằng: khái-niệm về Nhóm Mười Hai đã nối kết với Đức Kitô từ thời
trước. Giáo-hội của ta là Israel mới. Thành ra, trong Tập-đoàn Mười Hai vị đây,
đã thấy thừa-tác-vụ của ông Phêrô trong nhóm. Và, sự-thể xảy ra ở Tân-Ước, cốt
ý bảo rằng: thủ-lãnh Giáo-hội của ta là vị Trưởng Tràng của Nhóm này.
Nhưng,
làm sao thừa-tác-vụ của ông Phêrô lại trở nên hiện-thực? Phải chăng, đấy là một
loại Tam-đầu-chế, như đã xảy ra thời sau này? Hoặc, Nhóm của ông là một tập-đoàn?
Hoặc, Thượng Hội-đồng Giám mục chăng? Đấy, chính là vấn-đề lịch-sử, dễ đổi thay.
Công Đồng Vatican 2 nói nhiều về “tập-thể-tính”
của Tập-đoàn các đấng-bậc, như: Ông Phêrô và Mười Một vị còn lại đã cùng nhau quản-cai
Giáo-hội, vào thời đó. Hệt như tác-giả Botte
từng xác-chứng, “tập-thể-tính” là khái-niệm thuộc thời các Giáo-phụ. Tỉ
như, văn-bản mang tên là “Nota
esplicativa previa” của Vatican 2 đã tìm cách làm giảm-thiểu thẩm-quyền “tập-thể-tính”
của các đấng bậc, khi quyết rằng: Đức Giáo Hoàng cũng có thể hành-xử mà không cần
đến ý-kiến của tập-đoàn Hồng-y, Giám-mục. Thời quân-chủ tuyệt-đối, mọi người đều
am-hiểu chuyện này. Nhưng hôm nay, thời dân-chủ/đa-nguyên này, ta không thể làm
như thế được. Quyền-lực rất ư là cần-thiết, nhưng ta không thể chấp-nhận chủ-nghĩa
độc-đoán, được. Ta có thể thực-thi quyền-bính theo cách của dân-chủ/nghị-sự,
nhưng không được phép chống lại kẻ tin. Ta cũng nên nghe ý-kiến của dân đen mọi
người, ở dưới trướng.
Cả
khi Đức Kitô thực sự không trực-tiếp cắt đặt Giáo-hội cách nào đi nữa, bởi Ngài
tin rằng tận-thế đã gần kề, nên khi ấy Ngài không tin vào chuỗi dài lịch-sử xảy
ra đúng thời/đúng lúc, thật chính-xác. Thật ra thì, sau khi Ngài quá vãng, người
người mới tuyên-xưng ý-nghĩa tổng-thể và dứt-khoát của thông-điệp và cách sống
của Đức Giêsu như thế thôi.
Loại
hình-ảnh mà Giáo-hội tiên-khởi có về chính mình ngay từ đầu, là có ý bảo: làm
dân con của Chúa vào thời cuối, khi mọi người ở Do-thái cuối cùng rồi cũng
đoàn-kết/hiệp-nhất cùng một niềm tin vào Đức Giêsu và vào tín-thư của Tin Mừng.
Thành
ra, Đức Giêsu đơn-giản là Ngài để lại một cao-trào cộng-đoàn kẻ tin vốn biết
mình là dân con của Chúa, tức: nếu có tập-họp theo tính cánh-chung, trước nhất
là do Thiên-Chúa của Israel lập ra; và từ đó, mới lan sang hết mọi người.
Nói
cách khác, Giáo-hội là cao-trào giải-thoát mang tính cánh-chung, có mục-tiêu cưu-mang
tất cả mọi người, nam cũng như nữ, đưa họ vào với hiệp-thông duy-nhất, trong
hài-hoà/giản-đơn, có sự bình-an ở lại với họ, chen lẫn mọi người, một thứ an-bình/hài-hoà
được tỏ bày cả với môi-trường sinh-thái, nữa.
Thế
nên, Giáo-hội-luận là môn-học xuất tự tầm nhìn cánh-chung hoặc từ thông-điệp
cánh-chung của Đức Giêsu, mà ra.
Toàn-bộ
thể-chế lịch-sử, là thừa-tác-vụ cốt bảo-quản sự tự-do con cái Chúa. Hệ-cấp Giáo-hội,
chỉ để phục-vụ dân con Chúa, mà thôi. Hệ-cấp Giáo-hội gồm các Giám-mục, linh-mục
và phó-tế có nhiệm-vụ thấy được rằng thông-điệp Đức Giêsu ban truyền, vẫn duy-trì
tính vẹn-toàn của Tập-đoàn Giáo-hội, nhưng tuyệt nhiên không gây hại cho
toàn-thể tín-hữu của Ngài.
Ta
cần tôn-trọng luật-lệ của Giáo-hội, tức: luật Hội-thánh, nhưng khi có ai đó chứng-tỏ
rằng tiêu-chuẩn luật-lệ đây không được kẻ tin chấp-nhận, vì họ bị coi là những kẻ
vô-tâm/vô tính, thì khi đó luật-lệ phải đổi thay. Ngược lại, nếu họ quyết sống
vì sự tốt lành của kẻ tin, thì họ cũng sẽ được chấp-nhận, thôi.
Cấu-trúc
của thể-chế Giáo-hội đang làm mất đi tính thần-bí/kín-mật, cả khi thể-chế lịch-sử
là cần thiết, có như thế mới mong duy-trì được sự tự-do của Giáo-hội, tự-do bên
trong Giáo-hội. Và, khi Giáo-hội tự nguyện phục-vụ người khác, thì Giáo-hội rất
đáng tin-cậy và rất được hoan-nghênh, thật thiện-cảm.
Giáo-hội-luận
và chiếc chìa khoá nhỏ
Giáo-hội
ngày nay phạm nhiều lỗi-lầm, là do bỏ sót những chuyện ấy. Thật ra, Giáo-hội có
nhiều cơ-hội ở thế-giới gian-trần, mà ngày nay mọi người đều hướng vào đó.
Nhưng, tín-hữu Đức Kitô thường không thấy mình được hệ-cấp Giáo-hội thông-cảm.
Nên, Giáo-hội là thể-chế cần-thiết bởi vì nếu không có Giáo-hội thì mọi chuyện
sẽ trở nên hỗn-mang, dao-động.
Chịu
đựng khổ-đau từ Giáo-hội và ngang qua Giáo-hội, là thành-phần đời sống tín-hữu
của chúng ta. Nhưng, điều này không có nghĩa là: ta phải ‘làm thinh như tình đã
thuận’. Ta có bổn phận phải can-đảm đứng lên mà phê-bình, bởi lẽ Giáo-hội luôn
cần sự tinh-chế và cải-tổ.
Tôi
chỉ thích một Giáo-hội-luận theo khoá-từ nhỏ, chứ không phải một Giáo-hội-luận
thật lớn-lao, cao cả. Nhiều tín-hữu Đạo Chúa, lại không đồng-ý với tầm nhìn về
một Giáo-hội lớn-lao đầy quyền-phép. Tất cả, họ đều chủ-trương một Giáo-hội-luận
khiêm-hạ, giản-dị.
Vậy,
đâu là trọng-tâm của Công Đồng Vatican 2?
Thưa, là Giáo-hội. Điều đó, không phải Thiên-Chúa, cũng không là thông-điệp của
Chúa gửi đến mọi người, nam lẫn nữ. Có lẽ, ta cần một Công-đồng vốn dĩ nói đến
Thiên-Chúa trong thời-đại ta đang sống. Công Đồng trước đây từng xét tỉ mỉ về
Giáo-hội, nhưng đã bỏ rơi Chúa lại đằng sau hậu-cảnh. Giáo-hội phải tỏ ra mình
hơn là khúc ruột thừa, hệ-quả của những gì nói về Thiên-Chúa. Khi điều này xảy
đến, Giáo-hội sẽ có nhiều hơn chỉ một tiếng nói trong thế-giới ta đang sống.
Hiến
Chế Vui Mừng và Hy Vọng, tức: Hiến-chế
Mục-vụ về Hội-thánh trong thế-giới hôm nay đã cho thấy quan-ngại về thế-giới, cả
vào lúc này, khi ta thấy rằng thế-giới ta đang sống phản-ánh cao-trào lịch-sử đặc-biệt
về niềm phấn-khích lớn. Đó là niềm phấn-chấn/thích-thú hồi thập-niên 1960’.
Theo
nghĩa này, thì Hồng Y Ratzinger có lý khi ngài bảo: Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tỏ ra quá lạc-quan. Thế đó, là những
tháng ngày của thời gọi là thời Homo
‘faber’ tức: “con người lao-lực” làm
nên nhiều thứ, vốn dĩ sống trong một xã-hội tuyệt-vời. Thế nhưng, Hồng Ratzinger là người theo học-thuyết
Augustinô, nên những gì ông chỉ-trích đều phản-ánh quan-niệm của chính ông về
thế-giới, mà thôi.
Ông thấy gì về các thừa-tác-vụ
trong một Giáo-hội đổi mới
đến muôn đời?
Trong
Giáo-hội, có nhiều thừa-tác-vụ lâu nay vẫn được thừa-nhận. Bộ Ba gồm các Giám-mục,
Linh-mục và Phó-tế vẫn được Giáo-hội duy-trì. Thế nhưng, lại cũng có các thừa-tác-vụ
khác có thể được chuẩn-thuận qua việc tấn-phong, tức có nghĩa: được một phần của
Giáo-hội công-nhận thôi. Việc miễn cho Bộ Ba trên khỏi phải làm các thừa-tác-vụ
khác, nay cũng lỗi thời, bởi có người nói rằng: Bộ Ba nói ở đây, luôn gắn liền
với hàng Giáo-sĩ, trong khi các việc khác vẫn được trao cho giáo-dân.
Như
ở Hoà Lan, chẳng hạn, nhiều người vẫn từng nói: “Các thừa-tác-viên mục-vụ đang làm nhiều việc tuyệt-diệu, rất cần-thiết,
nhưng họ vẫn chỉ là giáo-dân thôi.” Nói thế có nghĩa gì? Phải chăng điều đó
có ý bảo rằng: Giáo-dân bao giờ cũng đơn-giản chỉ là giáo-dân, mà thôi sao? Tôi
vẫn tự hỏi lòng mình những điều như thế.
Thật
ra thì, giáo-dân nam nữ vẫn làm được rất nhiều việc hơn cả linh-mục trong các
giáo-xứ. Thông thường, họ là những người tay trong tay, sát canh nhau đồng-hành
với cộng-đoàn. Xem như thế, thì hàng ngũ linh-mục được coi như nam-nhân thực-hiện
các phép bí-tích, mà thôi. Đây là việc tinh-giản/hạ giáng rất nguy hiểm.
Thừa-tác-vụ mới
Nhiều
người vẫn tự hỏi xem ngày nay có cần đến đại-chủng-viện nữa hay không. Mọi người
chúng ta đều biết rằng: đó là các cơ-sở được thành-lập từ sau Công Đồng
Tri-đen-ti-nô. Ở Hoà Lan, các nơi này đều bị huỷ-bỏ sau Công Đồng Vatican 2,
nhưng ngày nay lại thấy các đấng bậc trong Đạo đang rắp ranh lập lại các cơ-sở như
thế.
Trong
thời-gian các ứng-viên được nhận đào-tạo thần-học tại Đại-học, họ lại không có được
nền-tảng linh-đạo theo đúng nghĩa của nó. Tuy nhiên, có nhiều nơi vẫn làm
công-việc này, nhưng đó không phải là công-tác của khoa thần-học chuyên đào-tạo
linh-đạo và mục-vụ. Thành thử, ta luôn có nhu-cầu đặc-biệt để tạo ra linh-mục.
Vấn-đề là: làm sao thành việc đó? Tại các cộng-đoàn nhỏ, nay đang có các trải-nghiệm
diễn ra ở nhiều nơi.
Nhiều
đại-chủng-viện, tu-viện và hội dòng trên thế-giới nay để trống, không được sử-dụng
đúng cách. Bởi thế nên, ta cần nhiều cộng-đoàn nhỏ có qui-định thích-hợp với đời
sống tu-hành. Nhiều ứng-viên đang tìm chỗ để tu-luyện linh-thao hơn là chủng-viện
định sẵn có nội-qui/luật-lệ đặt từ trước. Nhiều ứng-viên, nay lại thích tạo cho
mình các điều-lệ để sống, tức: các qui-định khả dĩ có thể thay-đổi tuỳ nhu-cầu
của nhóm. Theo tôi nghĩ, các cộng-đoàn phụ-trách công việc đào-tạo thừa-tác-vụ
linh-mục, hiện có nhiều tương-lai, rất sáng-sủa.
(còn tiếp)
Lm Edward
Schillebecckx chuyện
trò với Francesco Strazzari –
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment