Wednesday 29 January 2014

“Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”



Chúa Nhật 4 Thường Niên  Năm A

“Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng , bằng hương hoa sáng láng.
(dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)
Mt 5: 1-12
          Thơ mầu nhiệm ra đời, nghe xôn xao náo động muôn tinh tú. Náo động, phải chăng người thi sĩ muốn nói đến mầu nhiệm cứu chuộc dân gian nơi trần thế? Bằng Hiến Chương/Cương Lĩnh Nước Trời?
          Trình thuật Cương Lĩnh hôm nay, là những chương đoạn về hạnh phúc ở trần gian. Nơi đất miền thân thương, dẫy đầy phúc đức có chen lẫn những cực hình. Hiến chương/Cương lĩnh Nước Trời mà thánh sử lược ghi, là để người người được thấy dung mạo Đức Chúa, một Mô-sê rất mới.
Giống hệt như Môsê thời buổi trước, Đức Giê-su nay khởi đầu cuộc đời Ngài giảng rao bằng 5 bài giảng thuyết có những đề xuất, rất nghịch thường. Giống hệt như sách Ngũ Thư của Cựu Ước, Hiến chương Hạnh phúc Chúa ban hành trên non cao chốn núi vắng, là để tỏ bày cho người Do thái biết về đường lối Chúa dạy. Tức, những điều Ngài muốn ta thực hiện, trong cuộc sống.
Bài thuyết giảng đầu đời Chúa tuyên bố, không là băng hình đậm nét về những sự kiện vừa xảy ra trên núi thánh. Mà, là sưu tập tóm tắt những lời vàng Thầy gửi đến với đồ đệ rất thân thương. Lời Thầy khuyên dạy sẽ giúp những ai dấn bước theo Thầy, biết đường nghe theo mà sống những chuỗi ngày hạnh phúc, với anh em. Núi thánh ở đây, là địa điểm Thầy ban hành Hiến Chương mới. Là, điểm mốc lịch sử nơi diễn tiến mọi sự kiện đổi đời, có từ Thầy.
Vị thế Thầy ngồi khi tuyên bố Hiến Chương Hạnh Phúc, nói lên quyền uy rất mực của Đấng Vị Vọng, rất Tối Cao. Cách Chúa ngồi giảng rao, còn diễn tả quyền uy thế thượng mà các vị cha chung trong Giáo hội, vẫn đương làm khi có phán quyết quan trọng, gửi đến con dân. Phán quyết quan trọng, là quyết định có liên quan đến cuộc sống hạnh phúc của mỗi người. Cho mọi người.
Phán quyết Chúa ban, là Hiến Chương còn hệ trọng hơn cả Mười Điều Giáo Lệnh Mô-sê rao truyền, vào thuở trước. Các giáo Lệnh Mô-sê chuyển giao, là luật sống cho con dân Do Thái để thi hành, không mấy khó. Không khó, vì luật là luật chẳng cần đến tình thương. Chẳng cần phải tôn trọng. Cứ theo phương cách vị kỷ, tập trung vào chính mình. Hệt như thái độ chàng thanh niên rất giàu mà Tin Mừng từng nhắc đến: anh giữ trọn đủ 10 điều, từ hồi nhỏ. Giữ, nhưng chẳng cần tình thương yêu tha thứ. Anh là công dân tốt, nhưng không thể là đồ đệ đúng nghĩa của Chúa.
Hiến chương Thầy công bố, không là giới lệnh rất dễ làm. Tuy rằng, mỗi điều khoản bắt đầu bằng cụm từ “Phúc thay!”. Cụm từ này, xuất xứ từ tiếng Hy Lạp makarios, hoặc felix, tiếng La-tinh, cả hai bao hàm ý niệm hạnh phúc, rất cao trọng. Muốn am hiểu niềm hạnh phúc Chúa tuyên ban, có lẽ cũng nên am tường bối cảnh Nước Trời, Ngài tỏ bày. Tức, cần có tương quan tốt đẹp giữa ta và Đức Chúa. Cần chấp nhận Ngài là Chúa, Đấng hướng dẫn cuộc đời mà mọi người nên giữ.
 Về bối cảnh Nước Trời, không chỉ người giàu sang, thành đạt hoặc quyền uy mới là người cao trọng, nhiều hạnh phúc. Trái lại, chỉ người hiền biết chấp nhận khổ đau mới đích thực là người được Chúa chúc phúc. Đây, không hẳn là hiến chương bình thường, cho muôn nước. Nhưng là Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời Chúa đã ban. Hiến chương Hạnh Phúc Ngài ban, chú trọng nhiều đến nhu cầu thiết thực đổi thay cách sống. Đổi cả quan niệm về giá trị cuộc đời. Giá trị, nơi uy lực của kẻ yếu mềm, bị bỏ rơi.
Tìm hiểu ý nghĩa đích thực của Hiến Chương Hạnh Phúc, mọi người sẽ nhận ra điều Chúa thách thức lối suy tư bình thường, theo qui ước. Có tìm và có hiểu, ta mới thấy được ý nghĩa Ngài đưa ra:
*Hạnh phúc thay, người có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ: người có tinh thần khó nghèo chính là người biết phó mặc hoàn toàn cho Đức Chúa. Có thái độ như thế, người người mới thực sự bước vào triều đại của Ngài. Không ỷ vào những gì mình đang có.
*Hạnh phúc thay cho người sầu khổ, vì họ sẽ được ủi an: sầu buồn và khổ đau nói ở đây, không là tâm trạng của người vừa có mất mát. Mất bạn bè. Mất người thân. Nhưng, còn vì ác thần/sự dữ cứ xảy đến với thế giới nhân trần. Nên, sầu buồn và khổ đau vẫn cứ đến. Hạnh phúc, là bởi họ vẫn cùng với mọi người đã giáp mặt khổ đau. Giáp mặt và sẻ san, chứ không bỏ chạy.
*Hạnh phúc thay cho người mềm yếu, vì họ sẽ thừa hưởng trái đất này: cụm từ “mềm yếu” trong Tin Mừng thánh Mat-thêu xuất từ tiếng Hy Lạp praus có nghĩa là: từ bi, bác ái. Trái ngược hẳn tính kiêu căng trịch thượng, chèn ép hoặc bạo tàn. Điều Chúa nói, ám chỉ sự tôn kính, tính hiền hoà phải có, với mọi người. Đây, còn là thái độ lùng kiếm bản chất thiện căn hầu tỏa sáng khắp nơi. Điều này trái với tính nhút nhát, đớn hèn mà người Do Thái đương thời thường lây nhiễm.
*Hạnh phúc thay, những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no đầy: điều Thầy Chí Thánh muốn nói, là: những ai sống ở đất miền ứ tràn những của ăn cùng thức uống, sẽ chẳng bao giờ có được kinh nghiệm về sự đói khát người dân vùng sa mạc, vẫn hứng chịu. Người đói khát sự công chính mà Chúa nói, từng hiến trọn công sức và cuộc đời ngõ hầu tái tạo công bằng và bình an ở xã hội, họ đang sống. Những người như thế, chắc chắn thuộc về Triều đại Nước Trời. Làm Chúa yên vui.
*Hạnh phúc thay,những ai có lòng thương xót vì sẽ được xót thương: đây không cốt ý chỉ sự thương hại hoặc cảm xúc hời hợt, nhưng là tâm tình thương cảm sẻ san. Tâm tình bước vào với nỗi niềm buồn đau, nơi người khác. Những người như thế, chắc chắn sẽ được Chúa đoái thương. Ở đoạn khác trong Tin Mừng, Đức Giê-su cũng khuyên môn đệ mình bắt chước lòng thương yêu của Đức Chúa. Điều này có nghĩa: ta hãy bỏ qua một bên mọi thành kiến lẫn ác cảm. Bỏ mọi ghét ghen miệt thị trong giao tiếp, đối xử.              
*Hạnh phúc thay, những ai có tâm hồn trong trắng vì họ sẽ được diện kiến Đức Chúa: trong trắng ở đây không là sự trinh trong xác thịt. Nhưng, nhìn sự vật với cặp mắt không thành kiến, méo mó. Không kỳ thị hoặc có đầu óc hẹp hòi như các luật sĩ đầy xung khắc, vị kỷ. Có tâm hồn trong trắng, là người nhận ra tình yêu Đức Chúa đang ở với họ. Người như thế quả thật họ đang có phúc.
*Hạnh phúc thay, những người biết dựng xây hòa bình, vì họ được gọi là con Thiên Chúa. Hạnh phúc là phúc cho ai hoạt động cho việc hòa giải, hòa hợp ở khắp nơi. Hòa giải - hòa hợp, không chỉ bãi bỏ tâm tình kình chống mà thôi. Nhưng còn là, đến với nhau. Chữa lành cho nhau. Cùng nhau kiến tạo sự hòa hoãn trong gia đình. Nơi phố chợ. Tại công sở. Ở chốn thị thành. Bình an trong chung sống, không để cho bất cứ ác tâm, sự xấu được tồn đọng với nội tâm. Sự xấu, chính là thành kiến, xung khắc, kỳ thị; và cả đến những khai thác, bóc lột nữa. Tóm lại, có dựng xây hòa bình, mới tự nhận mình là dân con Đức Chúa. 
*Hạnh phúc thay, những người bị bách hại vì sự công chính, bởi Nước Trời thuộc về họ: ở đây, có lẽ có người sẽ hỏi: tại sao kẻ đau buồn cực khổ lại được Chúa chúc phúc? Lý do, những gì khiến họ đau buồn cực khổ là vì Tin Mừng. Do sự công bình và lành thánh, Tin Mừng Ngài đem đến. Người chịu đựng khổ đau, là cốt đem chân lý và bình an đến với thế giới nhân trần. Làm thế, họ đem niềm an vui hạnh phúc đến cho ta. Niềm vui ta có được, khi đã hoàn thành mục đích Ngài giảng rao. Lịch sử nhân loại dẫy đầy gương sáng của những người như thế. Ở Ấn Độ, Trung và Nam Mỹ, và khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy những gương lành thánh những người như thế. Thế kỷ 20 là thế kỷ sản sinh nhiều gương lành tử đạo hơn các thế kỷ trước. Các vị, đã chấp nhận tử đạo vì niềm tin. Vì bình an và công bình. Ngày nay, nhiều người vẫn chấp nhận hy sinh thân xác cho lý tưởng cao đẹp, hơn bao giờ.
 Hiến Chương Nước Trời, quả thật sâu sắc. Rất cao đẹp. Hiến chương vẫn kêu mời mọi người kiến tạo tương quan mật thiết, giữa ta với Chúa. Với mọi người. Hiến chương cũng đòi ta quan tâm sâu sắc, tham gia dựng xây thế giới đương đại cho tốt đẹp. Và, kêu gọi mọi người hãy tìm cách biến đổi thế giới thành nơi ngập tràn tình yêu thương. Ngập tràn chân lý công bình và lòng xót thương. Đầy ngập sự tự do và hài hòa giữa mọi người. Đó là ý nghĩa của Hiến Chương Hạnh Phúc. Của Cương Lĩnh Nước Trời. Là mục tiêu của cuộc sống. Sống hạnh phúc đích thật.
Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho mỗi người và mọi người sẵn sàng tham gia dựng xây Nước Trời đầy hạnh phúc, ở nơi đây. Nơi ta chung sống, chốn gian trần. 

Tuesday 28 January 2014

Lm Vĩnh Sang DCCT NĂM CÙNG THÁNG TẬN




Cuối cùng rồi thì cũng vào những ngày cuối năm, mọi người bận rộn công việc… nhà, anh bạn ngoài đời nói với tôi: “Mấy ngày này vào cơ quan chẳng thấy ai, muốn tìm ai ra siêu thị hoặc chợ Tết thì gặp liền”. Anh ta tếu táo nói: “Vẫy tay chào xếp... A anh ! đi sắm đồ cho chị hả ?”, “Mọi người như nhau thôi”. Người ta tất bật với cái Tết.
Thông tin từ các báo chí, phi trường chật cứng, ga quốc tế cũng như ga quốc nội, tàu xe căng thẳng… mọi người tìm đủ mọi cách để về quê nhà, quê nhà là đất nước Việt Nam hoặc quê nhà là tỉnh thành nào đó mình đã sinh ra, có gia đình, bạn bè và những người thân yêu đang sinh sống.
Mấy hôm trước có một Nữ Tu đến thăm và chào tôi để về quê ăn Tết với gia đình, chị đang sống trong một cộng đoàn chỉ có 4 chị em, chị là một trong hai chị lớn, còn hai em đệ tử nữa đang làm việc chung với các chị. Cộng đoàn của chị hoạt dộng trong một miền truyền giáo, một vùng đất còn mới nguyên chỉ có vài gia đình theo đạo. Có lần tiện dịp tôi đã đến thăm nơi đó, hoàn cảnh sống khá khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn, miền quê nghèo, hẳn các chị đã phải hy sinh rất nhiều hơn các cộng đoàn đã ổn định.
Tôi thắc mắc hỏi chị: “Sao lại về quê, thế còn công việc ở Giáo Họ thì sao, Tết nhất không có gì à ?" Chị trả lời: “Con cũng không biết, chẳng có gì, cha xứ bảo con không có việc gì đâu, về quê đi, mấy ông trùm cũng nói vậy, họ bảo ngày Tết chẳng có gì, các xơ cứ về quê đi, thì chúng con về”. Tôi chia sẻ với chị: “Thế mình đi tu, nhất là đi truyền giáo thì đâu là gia đình mình ? Đâu là nhà mình ? Gia đình ruột thịt hay cộng đoàn nơi mình được sai đến ?”
Vấn đề là quan niệm về cuộc đời dấn thân và chọn lựa cuộc sống. Không phủ nhận tình cảm gia đình ruột thịt là thiêng liêng và cần thiết, thậm chí còn cần thiết cho đời tu một cách đặc biệt, từng người Tu Sĩ nếu không được sự hỗ trợ của gia đình chắc khó có thể đứng vững mà tiến bước, gia đình luôn là chỗ dựa vững chắc và cần thiết cho đời dâng hiến. Nhưng khi được chọn vào đời dâng hiến, gia đình chính để mình dấn thân phục vụ và yêu thương lại là cộng đoàn tu của mình và cụ thể là cộng đoàn nơi mình được sai đến.
Như một người đã đi lập gia đình, sinh ra và lớn lên ở gia đình cha mẹ mình, nhưng khi quyết định dấn thân với một người khác để làm nên một gia đình mới, thì gia đình mới ấy chính là gia đình của mình, với chồng với vợ và với các con của mình, mình được mời gọi sống chết cho gia đình mới này. Không người cha hay người mẹ nào mà có thể mặc kệ gia đình mình đang gầy dựng mà quay về sống cho ông bà nội hay ông bà ngoại, rồi bảo đây mới là gia đình mình ! Nói như thế không phải là phủ nhận điều răn hiếu thảo, ngược lại, người tu còn phải sống triệt để điều răn này hơn ai hết nếu muốn trở nên chứng nhân của Nước Trời.
Họ bảo không có việc gì làm. Tôi chia sẻ với người Nữ Tu đó về mục vụ: Việc làm có hay không là ở mình. Sao không mở cửa Nhà Nguyện và kêu gọi mọi người đến suy tôn Lời Chúa trong các ngày đầu năm mới, cho họ rước lễ nếu không mời được cha đến dâng Lễ ba ngày đầu năm, đặc biệt là ngày mồng hai kính nhớ ông bà tổ tiên ? Sao không có chương trình mời các bạn trẻ bất kể lương giáo đến chơi ít là một ngày tại Nhà Nguyện của Giáo Họ, một ngày khác cho thiếu nhi, lên chương trình vui chơi lành mạnh, cùng nấu cơm ăn uống với nhau ? Sao không dùng những ngày Tết là cơ hội để viếng thăm các gia đình, chúc Tết bất kể lương giáo trong khu vực ? Sao không thực hiện những cuộc viếng thăm những người già neo đơn, những bệnh nhân, những người tật nguyền, những người kém may mắn ? Qua các cuộc thăm viếng đó chúng ta hiểu người dân hơn, thấu đáo hoàn cảnh của họ hơn và nhất là xây được những nhịp cầu thân ái với mọi người.
Chúng ta có biết rằng trong những ngày Tết thì mọi người, nhất là các bạn trẻ, dễ bị sa ngã nhất không ? Rảnh rỗi sẽ nhậu nhẹt, cờ bạc và vui chơi bất cẩn, dẫn đến những tai họa khốn khổ cả đời. Chúng tôi có kinh nghiệm cứ sau những ngày lễ, Tết, thì tình trạng nạo phá thai tăng đột biến. Tình trạng đâm chém do say xỉn và bất đồng khi nhậu nhẹt vui chơi dẫn đến đả thương. Nếu chúng ta không quan tâm giúp họ thì ai sẽ là người giúp họ, và sứ mạng của chúng ta là sứ mạng gì ? Chúng ta đâu phải là những công chức tôn giáo để rồi chỉ làm việc theo lễ nghi, theo lịch hành chánh.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi: “Hãy mở cửa Nhà Thờ”. Chúng ta có nghe lời kêu gọi này không ? Đức Thánh Cha kêu gọi: “Hãy đến vùng ngoại biên, vùng tiền đình dân ngoại”. Chúng ta có nghe lời kêu gọi này không ? Hay chúng ta đọc hết nhưng không… nghe gì hết !
Có một điều phải thành thật nhìn nhận và học tập nơi Giáo Hội Phật Giáo, đó là cửa Nhà Chùa mở liên tục trong các ngày cận Tết, trong Tết và sau Tết, các nhà tu hành Phật Giáo tiếp khách liên tục trong các ngày Tết, họ thi hành nhiệm vụ tôn giáo một cách cần mẫn, lư hương, đỉnh đồng, nhang đèn Nhà Chùa nghi ngút khói hương như những lời khấn cầu hòa quyện bay lên Thượng Đế.
Ngày Tết là ngày mà con người chúng ta có nhu cầu tâm linh rất lớn, ai cũng cầu mong được năm mới bình an, hạnh phúc, mạnh khỏe và nhiều may mắn, ngoài bàn thờ ở gia đình họ sẽ đến đâu để cầu an và lãnh phước ? Có cánh cửa nào của Nhà Thờ Giáo Xứ mở ra để tín hữu đến cầu an không ?
Tôi cũng chia sẻ với chị Nữ Tu kể trên. Gần như tất cả các Tu Sĩ trẻ hôm nay đều vào nhà tu khi đã lớn, do đó bạn bè thân quen thời niên thiếu ở tại quê nhà, hầu hết đã lập gia đình, theo truyền thống tình cảm, họ rất mến mộ người bạn đi tu, nên những ngày Tết nếu người bạn đi tu về nhà, họ không ngần ngại tổ chức họp mặt, mời đi ăn uống liên tục, hết nhà này đến nhà kia, cộng thêm với những sinh hoạt vui chơi của gia đình, sự đông đảo anh em về hội tụ và giờ giấc cơm nước thất thường, các vị Tu Sĩ khó giữ được đầy đủ giờ Kinh Nguyện, Thánh Lễ, chứ đừng nói đến giờ nguyện gẫm, điều đó có ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng của mình không ?
Để “Tân Phúc Âm hóa”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói cần phải có những cảm xúc mới với Tin Mừng, lòng nhiệt thành mới với sứ mạng và phương cách mới với hoạt động. Phải chăng năm mới là điều kiện thuận lợi để chúng ta nhìn lại mình, mà tìm cái mới bởi Thần Khí Thiên Chúa.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 26 Tết, 26.1.2014

Saturday 25 January 2014

Lm Frank Doyle sj: Gió lùa ánh sáng vô trong bãi



Chúa Nhật  3 Thường Niên - Năm A

Gió lùa ánh sáng vô trong bãi
Gió lùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai
Buồm trắng phất phơ như cuống lá
Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.
(dẫn nhập thơ Hàn Mặc Tử)
Mt 4: 12-23
          Ánh sáng, nhà thơ hôm nay ghi nhận, không là hào quang sáng chói, “lùa trong bãi”. Nhưng, là ảnh hình Chúa Kitô sáng mãi với thế gian. Ảnh hình Ngài tỏa sáng như ban ngày. Sáng từ thời Cựu Ước mãi đến hôm nay. Nơi trình thuật sáng chói, ngày Chúa gọi.
          Trình thuật sáng chói hôm nay, đề cập nhiều đến ánh sáng Vương Quốc Nước Trời, đem đến những canh cải đổi thay,  những đáp ứng lời mời của Thầy Chí Thánh, đang toả sáng.
          Bước đầu đường đời Ngài rao giảng, Đức Giê-su cũng đã mời và đã gọi. Ngài mời gọi đám dân đen thuyền chài nhỏ bé, rất tầm thường, đưa các vị ấy vào chốn toả sáng “lùa trong bãi”, làm đồ đệ. Khởi đầu công cuộc rao giảng, Đức Giê-su đã xuất hành từ thị trấn Na-da-rét. Tiếp theo đó, Ngài đi Ca-pha-Na-Um, một thị trấn bé nhỏ bên bờ Ga-li-lê nơi vùng biển mang tên “Zê-Bu-Lun” và “Náp-Ta-Li”. Đi như thế, Ngài đã ứng nghiệm lời tiên tri I-sa-ya, nơi Cựu Ước, có lời rằng: “Hãy canh cải, vì Vương Quốc Nước Trời đã gần kề”.
          Nước Trời đã gần kề nói ở đây, không là Thiên đường sống ở trên cao, nơi ta đạt đến sau khi chết. Nhưng chính là cộng đoàn tiên khởi, gồm con dân nhà Đạo gốc Do Thái giáo nay đà hoán cải. Thoạt tiên, người Do thái rất ngại ngần, vì không quen sử dụng trực tiếp danh tánh của Chúa, mỗi khi trao đổi hoặc nguyện cầu. Vì thế, sử gia Mat-thêu mới phải viết tả về Đức Chúa, bằng lối gián tiếp như “thiên đường”, hoặc bằng thể thụ động nơi động từ, vẫn nghe quen.
          Với nhà Đạo, cụm từ Vương Quốc xuất từ ngôn ngữ cổ của Hy Lạp bằng từ “basileia”. Basileia trước nhất có nghĩa: vương quyền, quy luật và triều đại. Cũng từ đó, khi nói Vương Quốc Nước Trời đã gần kề, không có nghĩa bảo rằng: ta đã gần đạt chốn đền đài cung điện đầy nguy nga. Dù ở đời này hay đời sau. Thành thử, lời khuyên Hãy canh cải là có ý bảo: hãy đặt mình dưới sức mạnh/quyền uy của Đức Chúa. Hãy sống vì Vương Quốc Nước Trời. Vì Vương Quyền của Đức Chúa.
Đặt mình sống vì Vương Quyền của Chúa, là đặt mình trong tương quan đầy thương mến với Trời. Và với Chúa của ta. Đặt mình trong tương quan, là sống trong môi trường nơi đó có các giá trị đáng để ta trân trọng thực hiện như: tình yêu, lòng thương xót, sự công chính, tự do, sống với cộng đồng, sống trong an bình… Nhất nhất đều là những điều, ta vẫn cần thắng lướt trong cuộc sống.
          Đặt mình trong tương quan với Chúa - với người nơi Vương Quốc Nước Trời, còn là biết canh cải, đổi thay, đáp ứng lời mời của Đức Chúa. Nói đến canh cải - đổi thay, người người thường chỉ nghĩ là: ta phải ưu tư áy náy về những lỗi phạm, mình đã mắc phải. Nhưng, mời gọi của Đức Giê-su còn đi xa hơn thế nữa. Ngài không muốn ta xóa sạch mọi tàn tích của lỗi phạm trong quá khứ. Bởi lẽ điều ấy, chẳng thể nào làm được. Canh cải đổi thay là chuyển hướng hành động từ ngày hôm nay, đến lai thời.   
          Canh cải đổi thay, cụm từ bắt nguồn từ metanoia tiếng Hy Lạp. Cụm từ trên, bao gồm một thay đổi từ gốc rễ mọi suy tư nghĩ ngợi. Quyết hướng nhìn về cuộc sống theo đường lối mới. Đường lối được Tân Ước bộc lộ trong trọn bộ Thánh Kinh. Chỉ khi nào có quyết tâm canh cải đổi thay tận gốc rễ như thế, ta mới trở nên thành viên của Vương Quốc Nước Trời. Mới đặt mình dưới sức mạnh chuyển đổi nhờ uy lực của Đức Chúa.
          Hơn nữa, lời mời gọi của Đức Giê-su là yêu cầu ta không chỉ sám hối về những gì mình lỗi phạm trong quá khứ, quyết không lập lại. Nhưng là đổi thay trọn vẹn lối hành xử, để tháp nhập công việc Chúa muốn ta làm. Công việc ấy, là hợp tác cùng mọi người nhất định chấm dứt cơn túng cực bần hàn, của người dân đen trên thế giới. Là, chấm dứt nạn đói nghèo, thất nghiệp. Là, vứt bỏ tính hờn - ghen nơi cộng đồng nhà Đạo và dứt đoạn lòng “tham - sân – si” quá mức độ. Chấm dứt lòng ham mua sắm quá khả năng.
          Lời mời gọi của Chúa, là cốt để cho dân con nhà Đạo biết tháp nhập vào với Vương Quốc Nước Trời. Ở đây. Ngay bây giờ. Lời Ngài mời gọi, được gửi đến không chỉ với dân con nhà Đạo, nhưng cả muôn dân nước, khắp nơi trên địa cầu. Vương Quốc Ngài lập, cần vượt trên không gian - thời gian, vượt biên giới của nhà Đạo. Nước Ngài mời gọi, cần thể hiện bằng nhiều cách. Ở nhiều nơi. Cả những nơi, Đạo Chúa chưa hội nhập được. Bởi, trên thực tế, có đến 80% dân số thế giới chưa biết đến Tin Mừng của Đức Chúa. Chưa biết Lời Ngài, vì Lời Mời Gọi ấy chưa phổ biến khắp dương gian. Thế nên, ta cần chuyển tải và coi Lời Ngài như mục tiêu đời sống, của mọi người chúng ta.
          Người nhận rao giảng Nước Trời, vào buổi đầu đời, chẳng phải là những kinh sư, Pharisêu, hoặc Biệt Phái. Mà là, giới thuyền nhân chài lưới, rất bình dân. Những người cả năm không cần sách bút, lẫn kinh kệ. Nhưng lại hiểu Lời, hơn ai hết. Và, có điều hi hữu nữa là: lời mời gọi Chúa gửi đến được chuyển tải ngay vào lúc các ngài làm công việc chài lưới. Chính vì thế, Chúa vẫn xác nhận: Thầy chọn các con, chứ không phải các con chọn Thầy.”
          Với các môn đệ, metainoia (canh cải) còn có nghĩa trọn vẹn thay đổi lối sống trở về trước. Là, làm như các môn đệ gốc thuyền chài: dứt khoát bỏ thuyền, bỏ lưới bỏ cả giòng sông, quyết theo Thầy. Quyết theo Thầy, nên các ngài hoàn toàn tin tưởng nơi Thầy. Tin, đến độ bỏ lại đằng sau mọi phương tiện sống, kế sinh nhai.
Bỏ mặc mà đi, dù không rõ thuyền về bến nao, đi nơi nào. Cũng tựa như Thầy đã dứt khoát bỏ rời thôn làng Na-da-rét. Bỏ mẹ cha, bỏ cả cuộc sống tay nghề thợ mộc chân phương cần cù, vào mọi lúc. Bỏ là như thế. Nhập vào với Đạo là như vậy. Bởi từ nay, mối lo âu không biết mình lấy gì mà sống, cho bằng sự lo lắng quan tâm đến anh chị em đồng loại của mình, sống sao đây.
          Xem như thế, đáp ứng lời mời của Đức Chúa trong canh cải, là khởi sự sống đời rất mới. Một đời có những hỗ tương đùm bọc hết mọi người. Mọi người, nơi cộng đồng nhân loại, đang ngóng chờ. Bởi, cộng đồng này giờ đây đã trở thành gia đình thân thương, rộng hơn. Lớn hơn. Yêu thương nhau hơn.
Về yêu thương người cùng cộng đồng, thánh Phao-lô cũng đã căn dặn cộng đoàn dân Chúa ở Cô-rin-thô, bằng những lời đanh thép nhưng thật tình: “Tôi khẩn khoản kêu mời anh em, nhân danh Đức Kitô, hãy thuận thảo với nhau để không có sự chia rẽ nơi anh em và anh em sẽ hoàn toàn hiệp nhất trong tư tưởng và thần trí”(1Cr 1:10).
          Lời mời gọi canh cải và biến đổi hôm nay, không phải để Đức Chúa thích nghi với lối sống ta đã lựa chọn, nhưng để ta trở nên xứng hợp với thị kiến của Ngài về sự sống. Làm như thế, không phải là ta đang thực hiện một hy sinh, đổi chác. Nhưng ngược lại, để bảo rằng ta đang trên đường ngay nẻo chính. Con đường dẫn ta đến thành tựu, Chúa bảo ban.

Monday 20 January 2014

Lm Vĩnh Sang DCCT: "VÌ EM ĐÃ MANG LỜI KHẤN NHỎ…"




Hôm qua có chị bạn viết cho tôi mấy chữ từ phương xa: “Ngày mai Chúa chịu phép rửa… Cũng cúi đầu xuống sống Giođan nhé”. Một người bạn cũ từ xưa thời còn đi học trung học, sau ngày đậu tú tài toàn phần rồi ra trường, chúng tôi mỗi người một hướng ít gặp nhau. Ít năm sau, biến cố 1975 ập đến, tuổi trẻ gặp lúc thời cuộc thay đổi, chúng tôi càng vất vả hơn với cơm áo gạo tiền, và những định hướng cho bản thân.

Gần bốn mươi năm sau ngày chia tay, chúng tôi gặp nhau trong một dịp hội ngộ, đứa còn đứa mất, đứa lưu lạc phương xa, rồi chúng tôi nối lại các liên lạc và thư từ điện thoại với nhau. Mỗi lần hẹn hò chẳng bao giờ đầy đủ, tuổi lục tuần không còn phải lặn lội bôn ba nhưng lại bận chuyện con cháu, họp mặt chẳng bao giờ trước 8 giờ sáng, vì ai cũng phải đưa cháu nội ngoại đến trường thay cho bố mẹ chúng nó. Cả bọn ai cũng lên chức ông bà, chỉ mình tôi còn “bị” gọi là… “cha” ! Tuổi này “ngoài thế gian” người ta đã được ngơi nghỉ, chỉ mình tôi còn được gọi là “cha zừa” ( chưa già ) và dĩ nhiên vẫn còn “đương chức”, chưa hưởng hưu.

Các bạn đã lên ông lên bà, con cháu không nhiều thì ít, có lắm khi gặp nhau họ nói chuyện bù khú bạo mồm bạo miệng, thậm chí có tên còn lôi “ông cha” ra chọc cười, chị bạn nói trên của tôi lại thường im lặng, hoặc lên tiếng “la mắng” bạn bè, dĩ nhiên mỗi lần “lên cơn la mắng” càng làm chúng tăng sức chế nhạo thêm. Chị dấn thân trong việc phục vụ Nhà Thờ, suốt ngày chuyện ca đoàn rồi chuyện đọc sách, suốt ngày chuyện giáo lý rồi chuyện điều hành mục vụ, mỗi lần gặp khó khăn chị chạy đến tôi, trong tình bạn chị hỏi tôi về lẽ đạo, về luật lệ, về những tương quan trong nhà đạo với nhau...

Thời gian này chị sang Thái Lan nuôi cháu ngoại cho con gái đang làm việc bên đó, “thằng bồ nhí” ( cháu trai ) nó bám chị lắm nên không bỏ được, nhưng “máu” nhiệt thành không ngừng chảy, chị tham gia vào việc tông đồ cho anh chị em Việt Nam di dân ở Thái Lan, bôn ba tìm đến các khu nhà trọ người Việt di dân, chung sức với việc dạy giáo lý, và các cuộc họp mặt người Việt Công Giáo. Chị không quên thường xuyên thư từ về cho tôi bằng những dòng thư ngắn ngủi, vài chữ nhưng rất… Tin Mừng.

Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 2012 bàn chuyện “Tân Phúc Âm Hóa để loan truyền Tin Mừng”, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong Thư Chung sau cuộc họp tháng 10 năm 2013 cũng đề cập đến “Tân Phúc Ân Hóa” đồng thời vạch kế hoạch cho ba năm thực hiện công cuộc này.

Chuyện Giáo Hội định hướng, ra văn bản, thông điệp, tông huấn, thư chung… là chuyện thường tình, không biết ở các nơi khác thế nào, chứ chuyện hưởng ứng với các văn bản của Giáo Hội thì ở Việt Nam rất nhiệt thành.

Chúng ta cứ đi một vòng quanh các Nhà Thờ thì sẽ rõ, biểu ngữ cờ xí giăng rợp trời, tổ chức phát động khắp nơi, tìm kiếm văn bản phân phối, mời các chuyên gia đến nói chuyện, học tập, kể cả các bài viết rất bài bản trên các trang nhà điện tử.

Thế nhưng chỉ một thời gian sau, mọi sự lại yên ổn như cũ, đâu vào đấy, các văn bản được cất sâu trong thư viện, mọi chuyện không còn bàn đến nữa, tất cả nhanh chóng đi vào quá khứ, có còn chăng chỉ còn trên các bài nói chuyện, bài viết của một số ông bà… hoài cổ, nhắc đến như những dấu hiệu của một thời xa xăm nào đó!

Chúng ta cứ ngẫm xem, những văn bản dậy sóng một thời như bức Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc” ( 1990 ), Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu” ( 2000 ), Sắc lệnh “Ad Gentes” ( Vatican II )… bây giờ ở đâu ? 50 năm qua của Sắc lệnh Ad Gentes chúng ta lượng giá làm được gì ? 23 năm Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Chuôc” chúng ta thực hiện đến đâu ? 13 năm Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” kết quả thế nào ? Tỷ lệ dân số Kitô hữu không tăng ! Nếp sống đạo và nếp sống tu không đổi theo chiều hướng “Giáo Hội tại Á Châu” ! …
Đầu năm vừa qua, thế giới xuất hiện Đức Thánh Cha Phanxicô, lời nói, việc làm, thái độ và định hướng của ngài cho Giáo Hội đã gây ra thật nhiều hiệu quả tích cực. Chúng ta cùng nghe:
“Theo đài Vatican ngày 19.11.2013 cho biết, qua việc mến mộ Đức Thánh Cha, người ta trở lại với Chúa nhiều hơn. Theo những thông kê mới đây tại nhiều nước trên thế giới, số người trở lại đi Lễ, đi xưng tội, trở lại với Chúa, với Giáo Hội tăng lên rất nhiều. Từ những nước Á Châu như Philippines đến những nước Âu Châu như Tây Ban Nha, Anh Quốc. Từ những nước nghèo như Argentina, Braxin cho đến những nước giầu như Mỹ, Pháp, số người trở lại Nhà Thờ đều tăng lên trông thấy. Báo Sunday Times cho biết thống kê tại Anh cho thấy số tín hữu đến các Nhà Thờ Chính Tòa trong nước Anh để dự lễ, lãnh các Bí Tích tăng lên 20%.

Đức Hồng Y Nichols của Westminster xác nhận con số này, ngài cho biết trong 8 tháng vừa qua, do ảnh hưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô một bầu khí phấn khởi tin tưởng lan vào các cộng đoàn tín hữu. Mạng Insider của Vatican cho biết con số tương tự tăng lên ở Hoa Kỳ, Pháp, Tây Ban Nha và Braxin. Riêng tại Argentina, số người xưng mình là Kitô hữu tăng lên 12%” ( Bài giảng tĩnh tâm năm 2013 cho DCCT của Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt ).

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ cho chúng ta thấy cần phải có cảm xúc mới về Tin Mừng, lòng nhiệt huyết mới, từ đó sẽ tìm ra phương cách mới để loan báo Tin Mừng. Sở dĩ chúng ta không biến chuyển vì chúng ta thiếu cảm xúc mới về Tin Mừng, không có cảm xúc chúng ta chẳng khác gì loài vô tri gỗ đá, người ta khắc cái gì vào đó thì nó chỉ là thế đó thôi, thiếu lòng nhiệt huyết chúng ta chỉ làm “việc bổn phận”, những hoạt động vô hồn, không gây chuyển cảm xúc.

Ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta nhận lấy Thánh Thần, Thánh Thần thánh hóa nhưng cũng là Thánh Thần sai đi, ngày ấy chúng ta mang trong mình “lời khấn nhỏ”, lời khấn có còn sống động trong chúng ta hay không ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa 12.1.2014