Thursday 28 June 2018

Gm John Shelby Spong: (Bài 2) Đầm Mình Trong Vũng Tội : Lời Nói Đầu (tiếp theo)


Lời Nói Đầu
(Bài 2)

Thêm vào phần dẫn nhập, loạt bài này còn bao gồm các bài viết theo cặp nhằm diễn-tả cuộc tranh-luận xem nên phò hay nên chống sinh-hoạt dục-tình trước ngày cưới? Và, cũng để hỏi rằng các vị đồng phái-tính đang sống với nhau như “sự đã rồi”, và tìm ra điều gì khác hơn là lên án họ như Giáo-hội từng đối-xử với họ? Và, nên chấp-nhận giải-pháp nào khác, chứ không nên cứ thế mà cưới? Hoặc, với các vị độc-thân hoặc cứng tuổi, có nên sống cô-đơn mãi thế không? Bài viết đây, đã hoàn-tất trước 1/12/1986 qua hàng tít trên báo The Episcopallian số tháng 2, 3, 4 và 5/1987. Khi đó, tôi làm Tổng Biên Tập lo xem xét các bài viết đại loại như thế.

Đầu tháng 12/1986, có người mang đến cho tôi Tờ Trình từ Tổ Đặc-Nhiệm viết về “các đổi thay trong Đời sống Sinh-lý - Gia-đình. Thấy tờ này trên bàn, tôi vội đọc các giòng chữ chảy dài trên đó với tâm-trạng chán-ngán đến bất ngờ. Chán ngán, không vì nội-dung hoặc văn-phong/thể-loại của tờ Trình, dù được chau-chuốt cách mấy đi nữa, nhưng vần-đề nêu ra đã tạo nhiều cảm-xúc nơi tôi. Chán ngán, vì tờ Trình ban đầu chỉ là tài-liệu mục-vụ kêu gọi mọi người tìm-hiểu/học-hỏi nhiều hơn nữa. Không hiểu sao các đề-xuất của Tờ này lại được đưa ra tranh-cãi để rồi đi đến quyết-định như trên.

Tôi nhận chân và xác-tín rằng: mọi người đều đã thay đổi lập-trường và tình-huống nay gia tăng khi ai nấy bị ép buộc phải tranh-cãi để bảo-vệ định-kiến riêng của mình. Đúng ra, khi ấy tôi ở vào vị-thế thua-thiệt khi cuộc tranh-luận dấy lên một ý-thức-hệ, hơn là chọn về phía thắng cuộc mà chẳng mấy ai kình chống hoặc có thái-độ tương-tự về một số vấn-đề đã rõ.

E ngại của tôi khi ấy, là sợ rằng Tờ Trình rơi vào tình-trạng bị chống-đối; và nỗi lo sợ này lại cứ thế gia-tăng khi Tờ Trình được gửi đến hai mươi tám thành-viên Hội-Đồng Địa-phận để các nghị-viên xem xét ở buổi hội tổ chức vào tháng Mười Hai. Sở dĩ Tiến sĩ Thayer cũng đến họp vì ông muốn có dịp giới-thiệu Tờ Trình với Hội-đồng và để trả lời vấn-nạn do các vị đề ra.

Nhưng hôm ấy, chẳng ai buồn đưa ra vấn-nạn nào hết, mà chỉ tỏ lòng cảm-kích đối với công việc mà Tổ Đặc-Nhiệm đã làm theo yêu-cầu. Bằng số phiếu 28 trên 0, Hội-đồng Địa-phận bèn đưa ra chỉ-thị tờ Trình phải được gửi cho Công-nghị thường-niên năm thứ 113, họp vào ngày 30/1/1987.

Ngay từ mồng 1 tháng Giêng năm đó, Tờ Trình như được phổ-biến rộng khắp cho công-chúng am-tường khi 600 vị trong đó có dân thường và giáo sĩ nhận Tờ Trình theo đường bưu-điện. Chẳng có thư giải-thích, cũng chẳng thấy ai gọi điện bàn bạc, theo cách tích-cực hoặc tiêu-cực, nhất nhất đều xuất xứ từ các đại-biểu khác nhau. Các đại-biểu được mời đến dự buổi diễn-giải trước ngày họp, là để định rõ vấn-đề đặt ra, hầu giúp mọi người biết mà bầu phiếu tại Công-nghị.

Theo tôi hiểu, không chi tiết nào từ Tờ Trình này được nêu lên trong các buổi họp tương tự, ngoại trừ buổi hội có Ts Thayer thành-viên tham-dự. Ngay buổi ấy, cũng chẳng thấy ai ỏ ê điều gì.

Tiếp đó, ngày 15 tháng Giêng cùng năm, mọi người gom gộp thông-cáo gửi về các báo trong vùng chuyên loan-tin hội-nghị. Thông-tin ngân-sách, hoặc đường lối giải-quyết cùng tài-liệu lai-lịch của thuyết-trình-viên được mời  trong đó có Giám mục chủ quản địa phận chúng tôi vừa đắc cử. Và, các dữ-liệu về các Tờ Trình cũng đề-cập việc hội-nghị bị chất-vấn hành-động gộp chung làm một ở trong thư. Một lần nữa, ít có người hoặc chẳng ai muốn phản-hồi về các sinh-hoạt nói ở đây.

Thứ Tư 28 tháng Giêng năm ấy, ký giả Michael J. Kelly đặc-phái-viên tờ The Bergen Record, một nhật-báo phát-hành đều đặn ở New Jersey, chuyên đề-cập chuyện nội-bộ vùng Bergen trổi-bật có gọi điện cho viên phụ-trách báo chí của chúng tôi, có cho biết: Ông rất thích Tờ Trình của chúng tôi vì dám đề-cập chuyên tình-dục nhiều húy-kỵ. Ông yêu cầu được phép đến để bàn bạc và tra-vấn lai-lịch liên-quan đến chuyện này. Yêu cầu của ông được chấp-thuận, và phó tế Leslie Smith, một trong các đấng bậc ở địa-phận, cũng đã cùng tôi chạy đến bàn bạc với Michael J Kelly cốt trả lời một vài câu hỏi do ông đặt.

Thứ Năm 29 tháng Giêng, ngay trang đầu Tờ Trình, đã thấy xuất-hiện hình ảnh vị Giám mục chủ-quản giáo-phận Newark, như thế có nghĩa là: tờ Bergen Record đã phá lệ kể chuyện qua tiêu-đề “Những bất đồng chống tín-điều Tình-Dục”. Câu truyện trên báo có viết: Giáo phận Newark đề-nghị ban phép lành cho các cặp đồng tính sống ở đây. Lập tức, Associated Press đã mau mắn nhặt nhạnh mọi chuyện gửi về dịch-vụ truyền-thông trên toàn quốc và cả thế-giới nữa.

Thứ Sáu 30 tháng Giêng, là ngày khởi đầu Hội-nghị, chúng tôi bị các nhóm truyền-hình toàn quốc, và các cơ sở biệt-lập ở New York cũng như Hệ truyền-hình giây cáp của Ted Turner cũng từ Atlanta đến họp và đông đảo các hãng thông-tấn khác vây quanh. Nhiều phóng viên đến từ nơi xa-xôi, như: Detroit, Oakland, New York, Houston và Raleigh, cả tờ Tim Newseek cũng muốn phỏng-vấn chúng tôi nữa. Thật ra, giới truyền-thông đã làm khó Tờ Trình bằng cách đưa vào tập tin hoặc bỏ qua không nói tới các vấn-đề như thế, là có ý tạo tranh-luận mãnh-liệt hơn. Hai ngày sau, thiên-hạ tới tấp gửi mọi truyện về các dịch-vụ truyền-thông khác nhau, hầu theo dõi vụ việc. Đoàn làm phim truyền-hình đã có mặt ở khắp nơi, trong thời gian hội-nghị diễn-tiến.

Sở dĩ Hội nghị chúng tôi hoạt-động công-khai về Tờ Trình này, là có ý chấp-nhận nó với lòng cảm kích, rồi chỉ-thị cho các giáo-hội bỏ ra nguyên một năm học hỏi, tìm hiểu. Mọi giải pháp có được từ nghiên-cứu ấy buộc phải chuyển đến hội-nghị 1988, để bầu phiếu. Quyết định này, đã biến-hình và đi vào với giới truyền-thông.

Với báo chí ngoài đời và trong đạo, Tờ Trình nói đây gọi là “Tờ Trình Newark” được các nhóm chính-thức hoặc tư riêng, các giám mục và công-nghị địa-phận đem ra bàn-bạc xuyên đất liền. Nhiều cơ-quan/tổ-chức khác cũng đưa ra lập-trường khác biệt, lúc thì chống đối, khi thì cổ-võ lập-trường kiên-định với tờ Trình cốt ý bảo rằng: họ đã nhận được tờ này. Khi nói về tôi, có người ủng-hộ hết mình, có người lại chống-đối tối đa.                

Xem như thế, các tranh-luận về dục-tình đăng trên The Episcopalian đã xuất-hiện hai ngày sau khi chúng tôi tổ-chức hội-nghị tại Newark. Trên báo này, lại cũng thấy bài dẫn-nhập do tôi ký được viết vào tháng Mười trước đó về các loại hình đổi thay về dục-tình. Nhiều người, lại đã có trong đầu thứ quảng cáo nối kết “Tờ Trình Newark” với bài viết do Giám mục Newark soạn, dù bài ấy đã được viết ba tháng trước khi tôi được đọc tờ Trình.

Về sau, mọi chuyện nói ở đây còn thêm rắc rối do có sự-kiện, là: vào tháng Mười Một, tôi có nhận một lời mời xuất-hiện trên truyền hình PBS của William F. Buckley Jr mang tên “Lằn Ranh Nóng Bỏng” để tham-gia tranh-luận về nữ-giới có vai-trò nào trong giáo phận. Một đồng-nghiệp của tôi là  Gm William Wantland, đấng chủ-quản giáo-phận Eay Claire, ở bang Wisconsin. Chương-trình này, được thu hình ngày 26/1/1987, tức hai bữa trước ngày mà ai trong chúng tôi cũng đều nghĩ là “Tờ Trình Newark” có thể cũng tạo mâu-thuẫn quyết dấy lên một tranh-cãi. Sở dĩ có điều đó, là vì băng hình này được lưu giữ mãi đến ngày Một tháng Ba mới được phát sóng; và chương-trình này được coi như thành-phần của buổi tranh-luận về dục-tình.

Trải dài suốt nhiều ngày tháng, thư từ dồn về hộp thư của tôi nhiều đến độ tôi không làm sao trả lời thỏa-mãn hết mọi người được. Và cứ thế, tôi lại dấn thân tham-gia nhiều tranh-luận khác, xuất-hiện trên đủ loại chương-trình mạn-đàm ở truyền-hình. Và cứ thế, tôi phải ngấu nghiến đọc nhiều bài luân-lý/đạo-đức và rốt cuộc, phải chấp-nhận lời mời viết lên tiểu-luận này. Rồi từ đó, đưa ra các vấn-đề tương-tự trước công-luận, ngõ hầu quí độc-giả có thể suy-tư, bàn bạc.

Cuối cùng, tôi viết lên đây bài nghiên-cứu từng dẫn tôi đến kết-cục hiện-tại, là để có chất-liệu làm nền tìm-hiểu các vấn đề đặt ra như thế; rồi sau đó, lại được đề-nghị viết thành sách thế này đây. Đài truyền-hình đòi hỏi câu trả lời của tôi phải thật đơn-giản và kết-luận phải nhanh chóng. Đây, chỉ là phương-tiện truyền-thông còn nông cạn, chóng vánh. Các bài tường-thuật trên báo, lại cũng cho phép tôi gom gộp nhiều chi tiết nhưng không được phép dài giòng kiểu tràng giang đại hải. Những điều viết trên báo, dù chỉ mới xảy ra hôm qua thôi, nay cũng trở thành chuyện quá khứ kéo dài đến muôn đời.

Trong khi đó, sách vở lại đóng góp nhiều điều kéo dài và chân thật với các cuộc bàn bạc, hoặc tranh-luận. Nó tạo cuộc đối-thoại với người đọc. Sách vở lại cũng tập-trung vào nhóm hội bàn-luận ở nhà thờ và gợi hứng cho vị mục-tử để viết bài giảng, điểm sách và các phản-ứng tích-cực cũng như tiêu-cực, cả bằng chữ viết cũng như nói miệng. Sách vở có thể đặt trên kệ, để rồi được lấy xuống đề ngày tháng mãi về sau. Thành thử, nó được coi như mới cứng hầu tạo phản-ứng, đối phó. Điều đó, đương nhiên trở-thành phương tiện trao-đổi mà tôi thích nhất.

Độc-giả của tôi cần biết rằng tôi vẫn hiểu là mình không thể viết lách hoặc suy-tư ngoài khuôn-khổ một tham-khảo. Tôi quyết-tâm xử sự theo tư-thế khách-quan, thẩm-nhập tận bên trong kinh-nghiệm của nữ-giới, đám người đồng tính luyến ái nam nữ, người da màu và những ai ở vào hoàn-cảnh kinh-tế xã-hội từ quan-điểm của chính tôi.

Thế nhưng, là nam-nhân được nền văn-minh Tây phương định-hình, tôi giao-dịch với người khác phái, người da trắng thuộc giới trung-lưu, vô vọng. Tuy tôi không nghĩ rằng điều này ảnh-hưởng lên nền triết-học kinh-viện của tôi, nhưng nó vẫn ảnh-hưởng lên các câu hỏi tôi đưa ra, và cả cung-cách tôi xử-lý dữ-liệu cùng các giá-trị tôi từng đưa vào kết-luận khác nhau. Vì thế nên, tôi có được bản thảo này là để quảng đại đa số người đọc phẩm-bình, hầu hy vọng có thể khuếch-trương tính toàn-diện và lập đường để hướng về cấp bậc khách-quan cao hơn nữa.

Viết lên tập sách này, phải nói là tôi chịu ơn rất nhiều người. Trước nhất, là Wanda Corwn Hollenbeck, cô thư ký tuyệt-vời lâu nay làm việc rất đắc-lực lại đầy hứng-thú để ra sách theo cùng một cường-độ như tôi; cô là người luôn có mặt tại văn-phòng làm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi. Hai trong số ba phó-tế của tôi ở Tổng Giáo-phận là Denise G. HainesLeslie C. Smith đều là biên-tập-viên chính.

Phó tế Haines là biên-tập-viên sáng giá, sâu sắc, toại nguyện với lối chọn ngôn-từ thật sắc bén. Cô am-hiểu thuật-ngữ mang sắc-thái tư riêng, cách tuyệt-diệu. Cả cô lẫn tôi trước đây đã tham-gia trở-thành đồng tác-giả một cuốn sách. Và, tôi còn chịu ơn cô không ít.

Trong khi đó, phó tế Smith trước đây từng là biên-tập-viên nhà nghề chuyên điểm sách. Ông là người được chúng tôi dành mọi tin-tưởng khi chạy đến nhờ định-vị chữ nghĩa, văn phạm và phong-thái viết lách. Ông xuất thân từ trường chủng viện với thành tích uyên-bác lâu nay được tuyên-dương công-trạng xuất-sắc trong học-tập. Ông vẫn đóng góp không ngừng cho bản thảo sách này. Vị phó tế thứ ba trong Tổng Giáo phận là James W.H. Sell, người đứng mũi chịu xào tổ-chức trại hè trong lúc sách này lên giàn khuôn viết thành truyện, nhưng ông lại cũng không ngừng đối-tác với tôi để đưa ra giòng chảy tư-tưởng chính-yếu.

Hai nhân-viên điều hành là giáo dân trong địa phận, John G. Zinn  lo phần tài chánh và Christine M. Barney phụ trách phần hành-chánh, người nhận thêm phần-vụ thêm thắt và mối xúc cảm khi sách này được phát-hành. Tất cả làm việc với thái-độ say mê, vui tươi, lịch-duyệt biến thành sự hỗ-trợ kéo dài.

Những người còn lại, gồm nhân-viên trong Tổ Công-tác, gồm có: Marge Allenspach, Susan Ayers, Cecil Bruner, Tupert Cole, Sharon Collins, Gail Deckenbach, Dale Hart, Olga Hayes, Wendy Hinds, Robert Lanterman, Barbara Lescota, Australia Lightfoot, William Quinlan và Elizabeth Stone, tất cả đều đã đóng góp cho sách này bằng nhiều cách; và tất cả đều biến văn phòng làm việc của chúng tôi thành nơi để sống và làm việc.

Sinh-hoạt vào thời gian sau đó, còn là giai-đoạn khá thích-thú với đủ mọi kinh-nghiệm gia-tăng cuộc sống rất hữu-hiệu. Lời cảm-kích được gửi đến Michael Lawrence, Tổng biên-tập của tôi đã đóng góp rất nhiều cho sách này được hoàn-thiện. Ông là người lâu nay từng làm việc với tôi rất nhiều năm.

Chủ-quản địa-phận Eau Claire là Giám mục William Wantland trở thành người đầu tiên nằm phía đối đầu với tôi trong tranh-luận. Ông là người đóng vai trò đối-tác rất đáng quí-trọng, dù tôi chỉ đồng-thuận với ngài rất ít điều, nhưng tôi vẫn khâm-phục và tôn-kính cũng như duy trì tình bằng-hữu quí giá đối với ngài. Dù không bỏ phiếu thuận cho ngài, nhưng tôi vẫn vui lòng đặt hết tin tưởng đời mình cho ngài.

Các giám mục khác cũng đã hỗ-trợ cho nỗ-lực của tôi gồm có Đức Giám Mục George Hunt, chủ quản địa phận Rhode Island, Giám mục Coleman McGee của Michigan, William Swing của California, Wesley Frenadorff của Arizona, Paul Moore của New York, Giám mục hồi hưu John Krumm của Nam Ohia, Giám mục hồi hưu John Burt của Ohia và Giám mục chủ tịch đoàn là Edmond Browning nữa. Một số thành-viên của Hội đồng Giám mục cũng đã thách-thức tôi rất nhiều điều buộc tôi phải bảo-vệ và suy-nghĩ lại một số vấn-đề. Trước tiên là các vị vừa kể tên ở trên, không kể đến Giám mục Wantland còn có Gordon CharltonMaurice Benitez của Texas, Harry Shipps của Georgia, Clarence Pope của Fort Worth, Robert Witcher của Long Island và Harold Robinson của miền Tây New York, tôi xin ngả mũ kính chào các vị thuộc cả hai nhóm.

Qua nửa đường hoàn-tất sách này, tôi cũng đã trang-trọng bỏ ra nguyên buổi chiều để bàn bạc tư-tưởng để viết cuốn sách này với Tiến sĩ và phu-nhân Robert Lahita. Tiến sĩ Lahita là Phó Giáo sư Y-khoa Đại-học-đường Cornell ở New York và là thành-viên khoa Y trường Đại-học Cao Đẳng Y-khoa Cornell.

Trên địa hạt luân-lý/đạo-đức về dục-tình trong đó lâu nay tôi từng hoạt-động là bộ môn ông rất thích, nên ông có trao cho tôi một số sách cùng bài viết phản-ánh các nghiên-cứu mới nhất về khoa-học. Ông cũng hoan-nghênh, cổ vũ sự kiện có thành-viên trong hệ-cấp Giáo-hội muốn mở rộng tầm tay ra với thế-giới khoa-học. Kinh-nghiệm ông có trước đây với các nhà lãnh-đạo tôn-giáo cho thấy là: các vị này quan-tâm nhiều đến việc quảng-bá hơn là nói lên sự thật về vấn-đề ấy.

Chiều hôm ấy, quả là một buổi chiều đầy thích-thú, đáng ghi nhớ. Bởi thế nên, tôi cũng gửi đến BobTerry Lahita lời cảm kích biết ơn, đặc biệt là Bob một người từng đọc bản thảo rất kỹ lưỡng và cũng đóng góp viết bài mở đầu cho tập sách này.

Riêng vị cố-vấn đồng thời là bạn hiền nhiều năm từng giúp đỡ tôi là ngài John Elbridge Hines, vị giám mục hồi hưu của Giáo hội Êpiscôpan. Hầu hết các ý-tưởng tôi có được vào lúc này hay lúc khác là do bàn-thảo với ngài. Kiến-thức, sự khôn-ngoan tinh-tế và kinh-nghiệm dày dặn của ngài đã làm phong-phú hóa đời sống của tôi rất nhiều. Phần lớn các đoạn trong sách này được viết ra đây có được vào thời gian tôi ghé thăm ngài ở Black Mountain, miền Bắc tiểu-bang Carolina. Tôi vẫn coi ngài là một trong các đấng bậc để tôi thi đua, đạt thành tích.

Giáo-phận Newark là thành-phần có một không hai của Giáo hội Êpiscôpan. Nơi đây có cả thảy bẩy quận lỵ thuộc miền Bắc bang New Jersey có đường ranh tiếp giáp sông Hudson về phía Đông và sông Delaware ở mạn Tây. Đây là một trong những quyền tài phán thuộc truyền-thống Anh giáo ở Hoa Kỳ. Bên trong hàng ngũ các vị này còn thấy một số các giáo sĩ trổi bật mà tôi được biết bấy lâu nay. Một số các vị khác cũng tham-gia can dự, lại chu-đáo, đều là giáo dân giỏi dang tôi từng gặp.

Giáo-phận này, nổi tiếng là chốn miền tạo nhiều tranh-luận xuất hiện nhiều năm trước các vị chủ quản đương-nhiệm. Tôi tin rằng, điều đó là do các vị ấy muốn tỏ ra cởi mở với các vấn-đề thời-đại, lại có can-đảm tiếp-cận chúng. Tôi thầm tạ ơn Chúa đã phú ban cho tôi cách nào đó ân-sủng đặc-thù để có thể bỏ ra nhiều tháng năm trong đời sống chuyên-tu bên trong khuôn viên giáo-phận đầy hứng thú này. Thế nên, tôi cũng xin gửi đến hàng giáo sĩ và giáo-dân trong giáo phận của tôi, lời tri ân nồng thắm.

Cuối cùng, tôi cũng xin chào mừng gia đình tôi, cách riêng Joan bậc hiền-thê đáng quí cùng các cô con gái diễm kiều là Allen (cùng chồng là Gus Epps), Katharine cùng chồng là Jack CatlettJaqueline hiện đang sống mãi tận nơi xa xôi thuộc Đức quốc nên ít có cơ hội tiếp chuyện với riêng tôi. Cùng đại-diện thế hệ nối tiếp đã gợi hứng cho tôi mỗi ngày trong đời để đặt tin tưởng vào sự khôn-ngoan đã trồi hiện trong đời của các cháu và còn đề-nghị là Giáo-hội nói chung cũng nên nhận đón nỗi khôn-ngoan ấy, cách nghiêm-chỉnh.

John Shelby Spong
Newar, New Jersey
Mùa Vọng 1987                           
        

                                                      



              

Lm Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT: GẶP CHÚA ĐƯỢC ĐỔI MỚI




Trình thuật Tin Mừng hôm nay mô tả việc Đức Giê-su chữa lành cho hai người thiếu nữ Do Thái. Tuy rằng hiệu quả của hai người nhận được như nhau, họ đều được khỏi bịnh. Nhưng chúng ta cũng nên để ý đến một số chi tiết được đề cập trong bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô của Chúa Nhật hôm nay. 

Trong bài Tin Mừng, có một sự tương phản giữa hai người phụ nữ. Một người có lẽ đã buớc vào tuổi trung niên, bà bị băng huyết đến nay đã được muời hai năm. Không ai biết bà là ai! Từ điểm này, chúng ta có thể suy đoán ra thân phận của bà. Bà thuộc vào hàng ngũ của những kẻ thấp cổ bé miệng. Bà liên tục sống trong tình trạng bị ô uế như thế thì ai dám tiếp cận với bà! Phương chi ai mà biết đến bà, cũng chỉ mang họa vào thân thôi. 

Còn cô kia, là con gái ông Giai-rô, viên trưởng hội đường, một người có danh vọng và chức tước trong dân. Cô con gái cho đến nay cũng đuợc muời hai tuổi. Đối với người thời đó thì đó là độ tuổi trưởng thành cho phép người con gái lập gia đình.

Tuy xuất thân, hoàn cảnh sống và địa vị của hai người khác nhau. Nhưng khi gặp Chúa, họ đều được kết quả giống nhau. Cả hai đều được phục hồi, được chữa lành khỏi bịnh.
Dựa trên cách xết đặt của bài Tin Mừng, chúng ta hãy bắt đầu truyện kể về việc Đức Giê-su chữa lành cho con gái ông Giai-rô. 

Như chúng ta đã biết, trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giê-su đã không gặp thuận lợi trong hàng ngũ lãnh đạo dân Do thái. Đã có những lúc, họ sẵn sàng bỏ qua các điểm bất đồng với nhau, ngồi chung vào một phe rồi tìm cách hãm hại Đức Giê-su (Mc 3:6).

Ông Giai-rô trong bài Tin Mừng hôm nay có thể là một trường hợp ngoại lệ. Tuy, ông cũng thuộc vào hạng danh giá, có quyền có thế, đuờng đuờng là người thủ lãnh của hội đường. Nhưng đứng truớc một hoàn cảnh thập tử nhất sinh của cô con gái, ông đã sấp mình duới chân Đức Giê-su và van xin Người: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó đuợc cứu thoát và đuợc sống.”

Sự chết luôn luôn là mối bận tâm của con người. Nó trở thành nỗi lo âu, mối đe dọa thật khủng khiếp cho mọi người, đặc biệt những ai còn trẻ. Hoàn cảnh của cô con gái ông Giai-rô là như thế. Cô ta sắp chết. Cô rất khó để qua khỏi cơn gian nan này. 

Trong bối cảnh như thế, chúng ta có thể tìm ra vài lời để giải thích cho hành động của ông Giai-rô hôm nay. Vì tình thương của người cha dành cho con, xen kẽ với niềm tin vào Đức Giê-su và nhất là ông phải thoát khỏi vòng ảnh huởng của các bạn đồng nghiệp, rồi mở lòng ra để đón nhận Tin Vui của Đức Giê-su mang đến. Đó là các động lực giúp ông can đảm hơn để gặp Chúa. Một cuộc gặp gỡ công khai chứ không thầm kín hay lén lút. Ông cần mạnh dạn để làm điều ông tin. Thật đáng cảm phục!

Tuy là như thế, nhưng con đường dẫn Đức Giê-su đến nhà ông Giai-rô lại bị gián đoạn bởi sự chen lấn của đám đông. Trong đám đông đầy người đó, có một người phụ nữ vô danh, đã tiếp cận Đức Giêsu một cách bí mật. Thật ra bà nhận biết hoàn cảnh của bản thân, không cho phép bà đụng chạm đến ai. Vì theo luật thì dù bà đụng vào ai hay ai chạm vào bà đều bị ô uế và cần tẩy sạch. 

Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Đau khổ vì bịnh tật, vì bị cách ly khỏi các sinh hoạt của cộng đoàn. Thậm chí bà còn bị lừa, bao phen khổ sở vì tìm sai thầy, uống nhầm thuốc khiến cho bà tiền mất tật mang. Bịnh vẫn hoàn bịnh mà còn bị nặng hơn. Bà không còn biết trông cậy vào ai!

Trong cơn đau khổ hầu như tuyệt vọng đó, bà tìm đến Đức Giê-su. Lúc đó bà chỉ nghe người ta nói về Người, thế mà bà đã can đảm chen lấn để chỉ cần sờ vào tua áo của Người với ý nghĩ trong đầu là chỉ cần như thế bà cũng đuợc cứu. 

Qua cử chỉ và ý nghĩ của người phụ nữ vô danh này khiến chúng ta phải ngạc nhiên trước một niềm tin thật sâu sa của bà. Không chỉ đụng vào Đức Giê-su mà chỉ cần chạm vào tua áo của Người cũng có thể chữa lành bệnh tật. Ngay khi đó bà ta nhận thấy có một sự thay đổi trong cơ thể của mình. Và, cũng ở thời điểm đó, Đức Giê-su nhận ra một sự thay đổi trong cơ thể của Người. Không ai nhận ra điều này kể cả các môn đệ thân tín của Người. Chỉ mình Chúa và người phụ nữ biết có sự thay đổi đang xẩy ra nơi họ!

Cho đến lúc này thân xác của người phụ nữ đã đuợc chữa lành, bà không còn bị băng huyết nữa. Nhưng, cuộc gặp gỡ giữa Đứa Giê-su và bà không ngừng ở phần chữa lành thể xác. Sau khi thấy lực trong người thoát ra, Chúa nhìn bà.

Bằng vào cái nhìn của Đức Giê-su khiến bà cảm thấy sợ phát run lên. Tuy nhiên, không vì nỗi run sợ khiến bà chạy trốn cái nhìn của Chúa. Trái lại, bà can đảm buớc ra khỏi cõi lòng để tự giới thiệu mình với Chúa và trình bầy toàn bộ sự thật. Không ai bắt người phụ nữ này phải làm như thế. Bà vẫn có thể ẩn mình vì máu đã ngưng chảy, căn bịnh băng huyết đã đuợc chữa khỏi. Nhưng hình như bà thấy đuợc cái nhìn mãnh liệt, một cái nhìn soi thấu tâm can của Chúa, khiến bà phải buớc ra để bộc lộ và phơi bầy mọi sự đang xẩy ra cho bà. 

Nhờ cuộc gặp gỡ với Đức Giê-su, nhất là với cái nhìn của Người khiến bà thay đổi và buớc vào để thiết lập mối quan hệ với Đức Giê-su, Đấng đã phán: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bịnh.”

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ bị băng huyết đã làm trì hoãn việc Người đến chữa lành cho con gái ông Giai-rô. Nên khi Người đến nơi thì được tin cô bé đã chết. 

Với nguồn tin sét đánh này, người nhà của ông chủ hội đuờng mới góp ý đừng làm phiền đến Chúa nữa. Họ có lý khi có lối suy nghĩ như thế. Bởi vì, sự chết vẫn là một vấn nạn khiến họ phải bó tay. Chạy đến với Đức Giê-su để xin Người chữa lành bịnh tật là chuyện mà ông Giai-rô và một số người cùng thời với Chúa đã làm; nhưng bây giờ đứa bé đã chết, còn gì để hy vọng nữa đây!

Nghe được những lời bàn như thế, Đức Giê-su quay sang an ủi và động viên ông đừng sợ, nhưng hãy vững tin. Quả thật, đây là một thách đố mới. Thách đố này đòi hỏi ông tiến thêm một buớc trong lòng tin. Ông đã tin rằng Đức Giê-su có thể chữa lành tình trạng thập tử nhất sinh của chứng bịnh mà con gái ông phải mang thế nào; thì giờ đây ông hãy tin rằng Chúa còn có quyền trên cả sự chết nữa. Nói thế rồi, Người tiếp tục bước đến nhà ông Giai-rô, có ba môn đệ thân tín cùng đi với Người. Bước vào nhà, Đức Giê-su liền nói: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Nghe những lời nói đó, phản ứng của đám đông là chế riễu Người. 

Thật vậy, làm sao chúng ta có thể nói một người đã chết là họ đang ngủ. Nhưng, đối với Đức Giê-su thì khác. Người mang đến một giáo lý mới, Người loan báo một Tin Vui. Đó chính là điều mà con người gọi là sự chết thì đó chỉ là một sự nghỉ ngơi, đợi chờ ngày đuợc đánh thức để sống đời đời, để tham dự vào cuộc sống vĩnh hằng với Thiên Chúa, Cha Người. Điều này có nghĩa là, khi Đức Giê-su đến thì cái chết không còn là cái chết nữa mà đó chỉ là giấc ngủ. Đến lúc này là sự đáp trả của ông Giai-rô: Ông có tin hay không?

Xuyên qua niềm tin của ông, Đức Giê-su cùng với ông và bà nhà tiến vào nơi cháu bé đang nằm, cầm tay cháu và truyền cho nó chỗi dậy. Con bé liền chỗi dậy và đi lại được. Chi tiết đi lại đuợc vì nó đã muời hai tuổi ám chỉ cho chúng ta biết rằng sau khi đuợc hồi sinh, cháu đã trưởng thành và có thể tự mình đi lại như người lớn. 

Ngoài ra, Đức Giê-su yêu cầu họ cho cô ăn chứng minh là cô đã hồi sinh. Cô không chỉ đi lại mà còn ăn uống bình thường như mọi người. Nhưng bên cạnh đó là qua cử chỉ quan tâm của Đức Giê-su dành cho cô hôm nay, chúng ta thấy sứ mệnh toàn diện của Người. Người đến để chăm sóc cho mọi nhu cầu của con người, từ tinh thần, thể xác, tình cảm, tâm lý đến hoàn cảnh chính trị của chúng ta nữa. 

Tóm lại, Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta đến gặp Chúa Cứu Thế. Qua hành trình rao giảng, cùng với các phép lạ kèm theo sau cùng là sự chết của Người đã ban cho nhân loại ơn chữa lành và cuộc sống được thay đổi, một sự thay đổi toàn diện, không phân biệt và cũng không loại trừ một ai. Tất cả đều đuợc chữa lành và đổi mới. Có nghĩa là khi gặp Chúa thì được đổi mới. Người muốn chúng ta tin rằng Người có sức mạnh đổi mới và hoàn thiện chúng ta.
Còn chúng ta thì sao? 

Là thành viên của một cộng đoàn của những kẻ tin, cùng san sẻ một lòng mến, nhất là cùng đón nhận Chúa làm gia nghiệp, chúng ta có thể thay đổi các điều kiện của cuộc sống mình và những người xung quanh hay không? Và, liệu chúng ta có thể mang lại sự chữa lành cho những ai đang lâm vào các hoàn cảnh khó khăn hay không? 

Xin Chúa ban cho chúng ta can đảm để làm như vậy.
Amen!
Lm Giuse Mai Văn Thịnh DCCT

Monday 25 June 2018

Lm Vĩnh Sang DCCT : "THƯỢNG ĐẾ HỠI CÓ THẤU CHO VIỆT NAM NÀY…"



Trong tuần lễ thứ 11 mùa Thường Niên, Lời Chúa trong Thánh Lễ hàng ngày kể cho chúng ta câu chuyện về cuộc đời và sứ mạng của Ngôn Sứ Êlia, đặc biệt ngày thứ hai, câu chuyện dừng lại ở biến cố vườn nho của một người có tên là Navốt (1V 21).

Một người tên là Navốt có một vườn nho, vua Akháp tuy ruộng vườn mênh mông nhưng lại thèm muốn vườn nho của Navốt, nhà vua đề nghị “giải tỏa” vườn nho để lấy đất làm kinh tế trồng rau, Navốt không đồng ý vì đây là vườn nho của cha ông để lại. Thấy nhà vua tỏ ra buồn phiền và cay cú vì không "cưỡng chế" được vườ nho theo ý mình muốn, hoàng hậu Isaven liền bày kế độc hiểm, cho người tố cáo, vu khống Navốt tội âm mưu chống lại triều đình, tòa án nhân dân ngay lập tức được thiết lập để xử Navốt, bản án tử hình được tuyên một cách nhanh gọn, và Navốt chết trong nỗi đau đớn tức tưởi. Akháp vui vẻ tổ chức liên hoan mừng chiến công, y như một cuộc chiến đáng được ghi vào binh sử.

Hàng ngày trên các trang truyền thông xã hội, chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu hình ảnh làm xé lòng bất cứ ai xem, kể cả những kẻ lạnh lùng nhất cũng không thể ngăn được cảm xúc. Những hình ảnh lập đi lập lại chỗ này chỗ kia, những cuộc đàn áp cưỡng chế, những tiếng khóc thắt lòng, những âm thanh đập phá nhà cửa và đánh đập con người, những hình ảnh bê bết máu trên gương mặt, những bó đuốc sống và cả những con người nằm bất động, hai chữ “cưỡng chế” để thu hồi đất là nỗi ám ảnh kinh hoàng của người dân. Người ta tha hồ ra tay cưỡng chế thu hồi đất để làm… kinh tế!

Gần đây nhất và có thể nói là ồn ào nhất là vụ đại án Thủ Thiêm, lần đầu tiên sau gần 20 năm sống và chết trong tủi nhục, oan ức, người dân Thủ Thiêm mới được vị đứng đầu bộ máy quyền lực thành phố tiếp xúc, nghe và có lời hứa hẹn. Ông ta nói giống như bà phó chủ tịch đã nói cách đây hai tháng, các ông bà có trách nhiệm trong thành phố bây giờ mới nghe, mới biết, thế là bao lâu nay chỉ có đám CA, dân phòng đi bắt bớ, đánh đập, khủng bố, là biết mà thôi! Kể cả kẻ đã ký lệnh giải tỏa, kẻ đưa tay cầm tiền bán đất của dân, kẻ chỉ đạo hệ thống báo chí bôi lọ, vu khống người dân “chống người thi hành công vụ” cũng không biết, không hề nghe tiếng khóc của người dân!

Ngôi Chùa mang tên Liên Trì bị san bằng, vị Hòa Thượng trụ trì bị cưỡng bức đưa vào Bệnh Viện Đa Khoa quận 2 giam lỏng, các sư tăng ở Chùa bị giải tán đi khắp nơi. Ngôi Nhà Thờ Thủ Thiêm nơi có người Linh Mục già cô đơn quyết ở lại không bỏ Nhà Thờ, cụ thu mình trên chiếc xe lăn, ra giữa trời mưa cầu kinh khi chung quanh cụ các loại xe cơ giới đang ì ầm chực san bằng giải tỏa. Tu Viện Mến Thánh Giá tồn tại trên trăm năm oằn mình chịu cắt điện, cắt nước, cắt đường đi và cắt cả hệ thống thoát nước, các Nữ Tu lội bì bõm trong trong những cơn lụt… nhân tai! Ấy vậy mà các ông bà có trách nhiệm trong thành phố không biết, cả một hệ thống chính trị không biết!

Câu chuyện vườn nho của Navốt đã không kết thúc bi thảm như vậy. Êlia người của Thiên Chúa, người thi hành sứ mạng nói Lời của Thiên Chúa đã không hề khiếp sợ quyền lực, không hề tránh né với cái kiểu biện hộ rằng đây là vấn đề nhạy cảm. Ông đến gặp nhà vua và tuyên lời chân thật, lời tuyên bố kẻ làm điều ác, bất công phải chịu tội, chó đã liếm máu của Navốt thì cũng sẽ liếm máu của Akháp, thây của kẻ áp bức người vô tội sẽ bị chim trời rúc rỉa.

Lời Chúa bền vững nghìn năm đó là xác tín của người tin vào Chúa, Lời Chúa sống động, như dao hai lưỡi phân cách đâm thấu tâm can con người, đó là nguyên lý bất biến. Thế nhưng Lời Chúa có được hiện thực, có được hiện tại hóa hay không lại tùy thuộc vào con người. Kịch bản vườn nho bây giờ nhan nhản khắp nơi đã có, phần cuối kịch bản đang chờ ứng nghiệm Lời Chúa.
“Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam này…”! Người dân Việt đang cất lên những lời nguyện cầu xé lòng…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 23.6.2018
(Tựa đề lấy từ tác phẩm "Đêm nguyện cầu" của nhạc sĩ Lê Minh Bằng,