Trong
tuần lễ vừa qua tôi có dịp trở lại miền cao nguyên Lâm Đồng, nơi mà trước kia
tôi có một số năm sinh sống phục vụ anh em người dân tộc. Bây giờ trở lại đã đổi
khác quá nhiều, dù mỗi năm tôi vẫn thường có đôi ba dịp đến, nhưng mỗi lần đến
là mỗi lần niềm tiếc nhớ rừng xanh năm cũ lại trỗi dậy trong tôi. Cảm giác đi
qua những tán rừng rợp mát, tiếng động vang vọng dội lại từ xa của tiếng xe,
con cáo con chồn chạy ngang mặt, con thỏ ngơ ngác nhìn rồi lủi mất vào rừng sâu…
Những hình ảnh đó như mới hôm qua, vuột đi như sự thay đổi trên màn chiếu của một
phim truyện, để hôm nay chỉ còn ánh nắng chói chan, những gương mặt bơ phờ bê bết
mồi hôi, những mảnh đồi khoe da đỏ lòm khô khốc.
Những buổi sáng thức dậy trong hơi sương, mở miệng thở là
phả ra làn khói, những nhánh lan rừng long lanh trong ánh nắng, cái lạnh dịu
dàng nhẹ nhàng đậm tình quê bên tách cà phê nóng. Một chuyến đi rừng về lan đầy
giỏ, gùi lan về treo khắp chung quanh nhà, để mỗi sớm được ngằn nhìn lan thỏa
thích, để mỗi chiều thưởng ngoạn những điệu vũ của lan rừng trong gió nhẹ hoàng
hôn, những cảm xúc đó chỉ còn trong tiếc nhớ.
Tôi
đứng giữa những tán phượng ở sân Nhà Thờ R’Lơm, ngôi Nhà Thờ lưu giữ của tôi
nhiều kỷ niệm, làng mạc chung quanh đã thay đổi hết rồi, cái làng R’Lơm năm xưa
với những túp lều lúp xúp không còn nữa, dòng suối lớn uốn quanh chiều chiều
vang tiếng cười hồn nhiên của các sơn nữ đi tắm suối không còn nữa, bây giờ là
dòng nước đục ngầu thay cho làn nước trong vắt ngày xa cũ, bây giờ là những
ngôi nhà bêtông thay cho những chiếc lều ám đen lúc nào cũng có những sợi khói
trắng nhẹ nhàng lãng đãng luồn ra trên nóc mái. Cái may mắn là những gốc phượng
già hai người ôm vẫn còn đó trong sân Nhà Thờ, những đám rễ nổi lên bò ngoằn
ngoèo trên mặt đất như những đám vòi của con bạch tuộc vươn ra tìm sức sống,
tán rộng che mát một khoảng sân.
Tôi
tha thiết xin anh em đừng chặt ngang gốc phượng, cố giữ như giữ một chút gì còn
sót lại của rừng xưa, một chút gì là kỷ niệm thời các Thừa Sai khai sơn phá thạch,
rồi hình ảnh đám trẻ nô đùa chạy quanh gốc phượng sống động trong tôi. Chúng
tôi đang bàn định làm ngôi Nhà Thờ mới cho buôn làng này, ngôi Nhà Thờ cũ đã mục
nát, hơn nữa, bây giờ trở nên quá nhỏ so với số tín hữu tại đây. Làm sao giữ được
hình ảnh ngôi Nhà Thờ đã 50 năm hiện diện ( 1963 – 2013 ), làm sao giữ được
bóng mát của những tàn phượng đầy ắp yêu thương ?
Rời Giáo Điểm R’Lơm tôi về thăm Giáo Điểm Đ’Pao ( Đà: nước,
suối, Pao: mơ, Đ’Pao: suối mơ ), con cầu sắt cũ kỹ với hai tấm ván dọc
theo chiều dài cầu – ngày xưa mỗi lần lái xe đến đây cố định hai bánh xe vào
hai tấm ván rồi “nhắm mắt” mà qua – không còn nữa, dòng suối lững lờ mộng mơ
cũng không còn nữa, thay vào đó là cây cầu bê tông, dòng suối gần khô cạn chảy
trên cái mương xây gạch nghe như vô hồn vô mệnh. Dòng suối “chị em” mang tên
Đ’Nung ( suối thiêng ) song song cách đó một cây số cũng được “lên đời” chung một
cách với Đ’Pao.
Nhà
Thờ Đ’Pao đã gần xong, chung quanh Nhà Thờ cô quạnh không một bóng cây, duy nhất
cây sanh cổ thụ ngay giữa sân trước Nhà Thờ hình như đang bị âm thầm lên án. Ngồi
giữa những anh chị em dân tộc quanh gốc cây, tôi vui mừng trò chuyện với bà
con, một ghè rượu cần được mang ra, mọi người vui vẻ “nhộ tờ nờm” ( uống rượu cần
), các sơn nữ mang những vòng dây màu sắc sặc sỡ choàng vào cổ anh em chúng tôi,
đó là những nghi thức dành cho khách quí đến thăm làng.
Khi
đã ngà ngà, trong lúc “nhun” ( say ) K’Nga, một ông người dân tộc trong ban chức
việc nói với tôi xin chặt cây sanh vì nó cản tầm nhìn ngôi Nhà Thờ mới, tôi cố
giải thích cho K’Nga hiểu cái quý của mảnh cây xanh còn sót lại từ rừng xưa. Hiểu
ý tôi, cha Th. nói nhỏ với tôi, cha đừng buồn, ở đây họ nhiều cây quá rồi nên họ
không quý cây nữa. Nhiều đâu mà nhiều, Đà Lạt ngày nay có đồi thông nào còn
nguyên vẹn đâu !
Đất nước mình mỗi năm có hàng ngàn hecta rừng bị phá bỏ,
ngồi trên máy bay, bay qua vùng trời cao nguyên, từng con suối nếu không đỏ quạch
thì cũng đục ngầu đất cát, quằn quại lăn lộn trên những mảnh núi đồi loang lổ lở
lói ngổn ngang. Còn gì đau xót hơn những vết thương ngày một phát triển trên da
thịt người con gái Việt Nam
vàng da. Từng vết thương mưng mủ, hoại tử, cày nát quê hương.
Chiều
hôm nay, một số bạn đã cùng nhau học hỏi về Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công
Giáo trong nhiều năm qua, anh chị em muốn cùng tôi suy nghĩ về chương Bảo vệ
Môi trường. Bảo vệ Môi Trường là một trong 12 chương sách Tóm Lược Học Thuyết
Xã Hội, nhưng là một trong 6 chương chuyên đề của cuốn Tóm Lược đó. Bảo Vệ Môi
Trường xếp hàng sánh vai cùng các chương: Gia đình, Lao động, Kinh Tế, Cộng đồng
Chính Trị, Cộng đồng Quốc Tế, và Cổ vũ Hòa Bình.
Khi
đưa ra quan điểm của mình về môi trường, Giáo Hội dựa trên mặc khải về tạo dựng,
sự tốt đẹp của nguyên thủy do mối tương quan thân thiện với Thiên Chúa và trách
nhiệm quản lý thiên nhiên của con người trong kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa.
Khi nói về sự bảo vệ môi trường, Giáo Hội dựa trên Tin Mừng cứu độ do Đức Kitô
mang lại nhờ mầu nhiệm Chết và Phục Sinh của Người, Ơn Cứu Độ trước tiên dành
cho con người và qua con người mọi thụ tạo được tái tạo lại trong Chúa Kitô.
Thật cần thiết cho chúng ta hôm nay, cần có cái nhìn đúng
đắn được hướng dẫn bởi giáo huấn của Giáo Hội, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mạc
triều đại mục tử của Ngài với định hướng “người nghèo, hòa bình và bảo tồn
thiên nhiên” ( Buổi gặp gỡ giới truyền thông vào ngày thứ ba bắt đầu triều đại,
http://www.chuacuuthe.com/2013/03/17/ngay-thu-3-cua-trieu-dai-giao-hoang-phanxico/
). Ắt hẳn chúng ta cần phải có cái nhìn tích cực hơn trong sứ mạng này.
Thầy
giáo Lê Quang Vinh đã có một bài viết rất sâu sắc với tựa đề “Như một lời tiên
tri”, khi nhận ra trong cuốn Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo,
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã trích một đoạn từ diễn văn của Đức
Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói “tiên tri” về linh đạo trong việc bảo
vệ thiên nhiên của hai vị Thánh lớn trong Giáo Hội, mà không ai ngờ, chính hai
vị Giáo Hoàng sẽ kế vị sau này lại chọn làm Thánh hiệu:
“Linh đạo Bênêđictô và Phanxicô đã cho thấy sự gần gũi thân mật của
con người với môi trường thụ tạo chung quanh, và thúc đẩy trong con người thái
độ tôn trọng mỗi một thực tại trong thế giới quanh mình” ( HTXH số 464 ) ( http://www.chuacuuthe.com/2013/04/17/nhu-mot-loi-tien-tri/
).
Tạ
ơn Chúa.
Lm. VĨNH SANG, DCCT,
21.4.2013
Tựa đề bài viết là câu hát mở đầu bài “Tìm lại màu xanh”
của các cha Thành Tâm và Trần Sĩ Tín, DCCT
Tựa đề bài viết là câu hát mở đầu bài “Tìm lại màu xanh”
của các cha Thành Tâm và Trần Sĩ Tín, DCCT
No comments:
Post a Comment