Tôi là Phêrô Hồ Văn Quân, sanh ngày 24.9.1937 tại ấp Long
An, xã Long Phú, quận Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá. Tôi lớn lên thời chiến tranh đầy
lo âu sợ hãi. Hồi nhỏ tôi được đi học trường Họ Trà Lòng do các Nữ Tu Dòng Chúa
Quan Phòng dạy. Tới năm 1951, vì muốn đi Chủng Viện, nên tôi phải trốn tránh
rời khỏi quê và theo cậu là thầy Jean, Dòng Thánh Gia Banam, đi học nơi cậu dạy
là Kon Pong Cham. Cũng tại đây tôi được chịu phép Thêm Sức ngày 22.4.1951 do Đức
Cha Joseph Chapalier, Giám Mục Nam Vang. Từ năm 1952-1956, tôi về Banam học,
chuẩn bị vào Đệ Tử Dòng Thánh Gia. Nhưng bị đau bệnh quá nên phải trở về Việt Nam.
Khỏi bệnh, tôi muốn vào Dòng khổ tu, nhưng nội tôi không cho vì thấy tôi yếu
quá.
Sau
đó tôi xin vào DCCT tại Sàigòn. Khi vào DCCT, tôi lại rất khỏe, lao động tốt.
Đến ngày 17.3.1958 tôi được đi Đà Lạt vào Nhà Tập. Cha Giáo Tập là cha Camille
Dubé, cha Phó là cha Andrê Nguyễn Quang Kiêm. Trong năm Nhà Tập, nhiều lần
chúng tôi được đi dạo vùng Blao và Phi-Yang. Có lần cha Giáo Tập hỏi ai muốn đi
Phi-Yang. Tôi dơ tay xung phong vì tôi thấy người Thượng thật đáng thương, tuy
các thầy già nói ở đó rất nguy hiểm. Tôi khấn Dòng ngày 19.3.1959 thì ngày
21.3.1959 tôi được phân công đi Phi-Yang. Tôi tới Phi-Yang ngày 22.3.1959 ở với
cha Antoine Lapointe và thầy Nicôla Đền. Thầy Nicôla Đền lo tổng quát, còn tôi
đi phá rừng với anh em dân tộc để học tiếng. Khi cha Benoit thay thế cha
Lapointe đi nghỉ ở Canada, tôi xin ngài cho tôi tiếp tục học tiếng, thì ngài
nói bắt buộc phải học tiếng. Sau đó tôi được phân công về trung tâm vừa dạy
tiếng Việt cho các em dân tộc vừa làm giám thị.
Vào
năm 1962, chiến trận lây lan, công việc mệt nhọc là di dân về chỗ an toàn. Tập
trung về một điểm như ở Dàm-pao thì lại xảy ra bệnh tật như ỉa chảy và sởi nơi
trẻ em. Người Thượng lại không biết kiêng cữ. Cho nên tôi vừa phải đưa các em
đi nhà thương vừa phải đưa các em đi chôn. Có ngày tôi phải chôn tới 10 em. Rất
khổ tâm. Tôi chịu không nổi muốn xin nghỉ một chút, nhưng các cha nói: Thầy
nghỉ, ai lo ?
Chiến
tranh càng ngày càng khốc liệt, chúng tôi càng ngày càng lao đao với dân. Một
địa điểm tập trung lớn là Srê-Dờng ( bao gồm dân Bơtong, Kềng-Dà, Ryông-Tô,
Phi-Sur ) trở thành bãi chiến trường và bị xóa sổ ( 1968 ). Cha Tài, từ 1960 ở
Phi-Yang rồi Koya, Liên-Khương, Srê-Dờng, kiêm Dà-Mrac, Nreng, Kon-Pang,
Kon-Phang, Atô, đến sau Phục Sinh 1969, ngài rủ tôi đi tìm một chỗ mới cho đàn
em sau này. Tôi đồng ý ngay. Những gì tiếp diễn sau đó, phần lớn anh em đã
biết, tôi không kể lại chi tiết ở đây. Tôi chỉ có thể nói là tôi tin Chúa Thánh
Thần hướng dẫn chúng tôi từng bước và Pleikly là Đất Hứa, vì Chúa đã “làm gấp
ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay dám nghĩ tới” ( Ep 3, 20 ).
Tới
Pleikly ngày 10.10.1969, chúng tôi cùng ở trong căn phòng dành cho dê vì không
có chỗ ở trong nhà nào cả. Chúng tôi cùng đi làm và đi học tiếng với dân. Đến
Giáng Sinh năm đó chúng tôi dọn qua một căn nhà sàn cất tạm xong trong Pleikly.
Tôi và anh Tín thường cùng đi làm ruộng làm rẫy với dân. Năm 1970, cha Tài mua
một máy cày tay hiệu Kubota cho hai anh em tôi làm nông, mục đích thử nghiệm
xem có thể sử dụng cho anh em Jarai không. Chúng tôi cày thử trên đất rẫy đến
đầu năm 1971 thì thử nghiệm trên đất ruộng. Chúng tôi thấy cần phải cải tiến
nhiều mới sử dụng được cái máy cày tay đó. Nhưng chưa kịp cải tiến thì xảy ra
chiến sự tháng 3 năm 1971. Tôi chạy thoát còn Thầy Đàn, Mầu, Tín bị bắt đem vào
rừng. Bề Trên cho tôi ở nhà Huế. Năm 1972 gặp “mùa hè đỏ lửa” lại chạy về Đà Nẵng,
rồi chạy vào Sàigòn và về Vĩnh Long giúp Đệ Tử.
Đến
năm 1973, tôi trở lại với anh em ở Pleikly. Thời này theo sự hướng dẫn của cha
Phán, tôi cùng với anh em lập ra những tổ sản xuất. Riêng tôi phụ trách tổ các
bà góa làm lò than. Khi lập các tổ sản xuất Jarai thì gặp sự tranh chấp đất đai
với người Kinh. Lò than các bà góa chúng tôi bị người Kinh phá. Chúng tôi lại
còn phải đấu tranh cho quyền lợi của bà con Jarai bị cướp xén đồ viện trợ, bị
dồn vào những khu vực cằn cỗi thiếu thốn, bị xâm phạm tài sản… Chính Quyền lúc
đó cuối cùng phải nhượng bộ và chính tôi đã đưa những người bị dồn dân trở về
làng cũ.
Sau
năm 1975, mọi đều như bế tắc và vô cùng khó khăn. Ai cũng sống trong lo âu.
Điều đó khiến sức khoẻ tinh thần và thể xác tôi sa sút. Tôi tìm về quê Sóc
Trăng trị bệnh và nương tựa lúc khó khăn vì ở quê tôi quen nhiều người hơn, hy
vọng sống thanh thản và dễ dàng hơn. Nhưng rồi cũng nảy sinh nhiều khó khăn
khác. Cha tôi tuy quen mà vẫn phải năn nỉ ông chủ tịch có việc chi cho tôi làm
trong khoảng thời gian 3, 4 tháng. Lúc đầu ông cho tôi vào giúp anh kinh tài
ấp. Ông cho tôi đi học khóa thống kê chỉnh lý bản đồ và đi các xã của huyện
Thạnh Trị để chỉnh lý bản đồ huyện. Lúc đó tôi thấy nhẹ thở đôi chút. Xong việc
trở về xã thì họ phân công tôi làm tài chánh Xã.
Lúc
đó các Linh Mục đi lại còn rất khó khăn. Trong khi tôi được tự do đi lại hơn,
nên tôi đến được nhiều ấp Công Giáo củng cố Đức Tin cho họ. Cha tôi thấy ruộng
đất họ chia ra hết nên tính lên miền Đông kiếm đất cao phá rừng làm vườn để dưỡng
già. Năm 1982, gia đình lên xã Phú Lý kiếm đất. Đất đồi sỏi đá chỉ trồng chuối
và mì. Đất trũng khai phá làm ruộng. Đến năm 1983, cha tôi mua được một cái nhà
ở Phú Dòng để cho mẹ tôi và cháu Thịnh ở cho nó đi học. Phần đất ở xã Phú Lý
nhằm ngay lòng hồ Trị An, nên đến năm 1985 phải di tản. Trong thời gian đó, tôi
vẫn ở lại làm việc ở Xã. Cơm ăn trộn mì tối đa. Mấy lần tôi cũng đấu tranh đòi
quyền lợi cho dân nhưng không thành công. Tôi xin nghỉ việc. Họ không cho. Tôi
cũng có liên lạc với anh em trong Dòng ở Vĩnh Long, Cái Tàu.
Đến
năm 1984, tôi đào nhiệm lên Phú Lý giúp cha mẹ. Ở dó có thầy Hội đang phục vụ.
Năm 1985, tôi bị đau gan siêu vi B phải về Sàigòn nằm bệnh viện Chợ Quán, có
Cha Giám Tỉnh Thao giúp đỡ. Đến năm 1987, tôi lại phải vào bệnh viện Chợ Quán
vì sốt rét. Sau khi ra viện thì cha tôi qua đời, Tôi về sống với mẹ và các em,
đi bán sinh tố kiếm tiền để giỗ 100 ngày cho cha tôi.
Tôi thấy Chúa thương tôi vô cùng. Qua bao nhiêu năm tháng
chỉ có hai bàn tay trắng, Chúa vẫn dưỡng nuôi chúng tôi. Sau khi cha tôi qua
đời, Nhà Dòng bảo tôi dẫn anh em đi Pleikly thử. Tôi lên Pleikly thấy anh chị
em Jarai ồ ạt trở lại trong lúc tình hình vẫn rất khó khăn. Tôi xin anh Tín gửi
cho cha Bề Trên ít chữ cho tôi được trở lại Pleikly. Để chia sẻ gánh nặng với
anh Tín nên ngày 29.11.1993 tôi nhận chức Phó Tế vĩnh viễn. Tôi vừa trông coi
nhà cửa vừa hướng dẫn giáo lý dự tòng và hôn nhân cho cả Kinh lẫn Thượng. Tôi
cũng tham gia thanh tẩy cho người lớn và trẻ em.
Tạ ơn Chúa và Nhà Dòng vô cùng, vì tôi học
hành chẳng có gì, sức khoẻ chẳng được bao nhiêu mà Chúa lại ban cho tôi các ơn
rất trọng đại, nhất là ơn được anh chị em dân tộc cho tôi được tin vào Chúa
Quan Phòng.
Léonard Phêrô
HỒ VĂN QUÂN, DCCT
TIỂU SỬ THẦY PHÓ TẾ
PHÊRÔ HỒ VĂN QUÂN
PHÊRÔ HỒ VĂN QUÂN
• Sinh ngày 24 tháng 9 năm 1937 tại Trà Lồng, Long Phú, Long
Mỹ, Rạch Giá, Kiên Giang.
• Từ năm 1937 đến năm 1951: Sống với gia đình tại ấp Tân Thành B, Long Tân, Thạnh Tri, Hậu Giang.
• Từ năm 1951 đến năm tháng 6 năm 1955: Tu tại Dòng Thánh Gia.
• Tháng 6 năm 1956: Gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế.
• Ngày 18.3.1958: Vào Nhà Tập Dòng Chúa Cứu Thế tại Đà Lạt.
• Ngày 19.3.1959: Tuyên khấn lần đầu tại Tu Viện DCCT Đà Lạt.
• Từ năm 1959 đến năm 1960: Mục vụ tại vùng truyền giáo Fyan, Đà Lạt.
• Từ năm 1960 đến năm 1969: Mục vụ tại vùng truyền giáo cho anh chị em K’ho.
• Từ năm 1969 đến năm 1971: Mục vụ tại vùng truyền giáo cho anh chị em Gia Rai.
• Từ năm 1971 đến năm 1972: Giúp giữ nhà khách ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế.
• Từ năm 1972 đến năm 1973: Giúp Đệ Tử Vĩnh Long.
• Từ năm 1973 đến năm 1976: Mục vụ tại Trung Tâm Truyền Giáo Pleikly.
• Từ năm 1976 đến năm 1984: Trị bệnh tại nhà và mục vụ ở DCCT tại Vĩnh Long.
• Từ năm 1984 đến năm 1989: Theo gia đình lên Phú Lý và mục vụ ở DCCT Phú Dòng ( Đồng Nai ).
• Ngày 25 tháng 11 năm 1993: Lãnh sứ vụ Phó Tế vĩnh viễn.
• Từ năm 1989 đến năm 2014: Mục vụ tại Trung Tâm Truyền Giáo Pleikly.
• Từ năm 2014 đến này: Nghỉ hưu tại Nhà Hưu Tỉnh Dòng.
• Từ năm 1937 đến năm 1951: Sống với gia đình tại ấp Tân Thành B, Long Tân, Thạnh Tri, Hậu Giang.
• Từ năm 1951 đến năm tháng 6 năm 1955: Tu tại Dòng Thánh Gia.
• Tháng 6 năm 1956: Gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế.
• Ngày 18.3.1958: Vào Nhà Tập Dòng Chúa Cứu Thế tại Đà Lạt.
• Ngày 19.3.1959: Tuyên khấn lần đầu tại Tu Viện DCCT Đà Lạt.
• Từ năm 1959 đến năm 1960: Mục vụ tại vùng truyền giáo Fyan, Đà Lạt.
• Từ năm 1960 đến năm 1969: Mục vụ tại vùng truyền giáo cho anh chị em K’ho.
• Từ năm 1969 đến năm 1971: Mục vụ tại vùng truyền giáo cho anh chị em Gia Rai.
• Từ năm 1971 đến năm 1972: Giúp giữ nhà khách ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế.
• Từ năm 1972 đến năm 1973: Giúp Đệ Tử Vĩnh Long.
• Từ năm 1973 đến năm 1976: Mục vụ tại Trung Tâm Truyền Giáo Pleikly.
• Từ năm 1976 đến năm 1984: Trị bệnh tại nhà và mục vụ ở DCCT tại Vĩnh Long.
• Từ năm 1984 đến năm 1989: Theo gia đình lên Phú Lý và mục vụ ở DCCT Phú Dòng ( Đồng Nai ).
• Ngày 25 tháng 11 năm 1993: Lãnh sứ vụ Phó Tế vĩnh viễn.
• Từ năm 1989 đến năm 2014: Mục vụ tại Trung Tâm Truyền Giáo Pleikly.
• Từ năm 2014 đến này: Nghỉ hưu tại Nhà Hưu Tỉnh Dòng.
Vào 15 giờ 30 thứ tư ngày 26.7.2017, thầy
Phó Tế Phêrô Hồ Văn Quân đã được Chúa gọi về tại Tu Viện DCCT Sàigòn, sau 80 năm
làm con Chúa trên dương thế, 58 năm sống lời khấn Dòng. Cuộc đời thầy Phêrô là
chuỗi dài hành trình theo Chúa Cứu Thế đến với anh chị em K’ho, Gia Rai. Thầy
Phêrô chia sẻ:
"Tôi
tạ ơn Thiên Chúa đã gọi tôi vào DCCT. Với đời sống Tu huynh, tôi không làm được
gì nhiều cho Nhà dòng cũng như Giáo Hội, nhưng tôi cảm nhận sự dấn thân theo
sát Chúa Giêsu Cứu Thế.
Ngay từ khi vào Dòng, tôi
đã có diệu cảm với việc truyền giáo cho anh chị em vùng Tây Nguyên. Khi ở với
họ tôi cảm thấy mình được gần gũi Chúa hơn. Suốt bao năm tháng ở cùng họ, làm
cùng họ, ăn cùng họ, tôi đã học được nơi họ nhiều điều về tình bác ái, phó
thác… Tôi coi đây là vùng đất hứa mà Chúa đã ban cho tôi."
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ
Maria – Mẹ Hằng Cứu Giúp, các Thánh trong Dòng, cùng với lời nguyện cầu của
cộng đoàn Dân Chúa, nguyện xin Thiên Chúa ban cho thầy Phó Tế Phêrô sớm hưởng
vinh quang Nước Trời.
Ngợi khen Chúa Giêsu và Đức Bà Maria !
Văn
Phòng Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam
No comments:
Post a Comment