Wednesday 2 August 2017

Lm Edward Schillebeeckx (bài 27) Tình thương-yêu hai chiều là giới-lệnh để ta sống “cái ngày ấy” rất cần-thiết





Phụ Lục
Tình thương-yêu hai chiều
là giới-lệnh để ta sống “cái ngày ấy” rất cần-thiết
(Gioan 14: 20)
(Bài 27)

                                                           

                                                                           Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên năm C
                                                                           Bài đọc: Công vụ 21:1-5d; Gioan 13: 31-35
                                                                                   
Albertinum, 17 tháng Năm 1992
                                                                            Chủ-tịch Buổi Thảo-luận:
Lm Edward Schillebeeckx


Nhằm hiểu rõ những gì được gọi là ‘Giới lệnh mới về Tình thương’, ta cần nhớ đến trạng-thái trong đó truyền-thống Cộng-đoàn Gioan lại đã tìm gặp nhau sau khi Thày Giêsu biến-cải hình-dạng, Công-đoàn này vẫn lo-âu tự hỏi: một khi Đức Kitô đã chết rồi, thì chuyện gì sẽ xảy đến vào thời sau đó?

Tin Mừng Gioan, bằng vào giới-lệnh mới buộc mọi người phải yêu-thương nhau cho đến chết, lại vẫn là lời đáp trả cho vấn-đề Thày Giêsu nay xa vắng, về thể xác (Gioan 13: 33-34)

Với Tin Mừng Gioan, cái chết của Thày Giêsu, một mặt là “sự toàn-thắng của Thủ lãnh thế gian” (Ga 14: 30 và 12: 31); còn mặt kia, theo nghĩa đích-thực và xác-đáng thì đó là việc Đức Giêsu trở về “Nhà Cha”, tức: “về lại nhà” như Tin Mừng Gioan đã trích-dẫn ở đoạn 7 câu 34-36,  cũng như đoạn 8 câu 21-22 và đoạn 13 câu 33-36.

Theo truyền-thống cộng đoàn Gioan, thì cuộc khổ nạn, cái chết và sự trỗi dậy của Đức Giêsu cùng việc Ngài ngồi bên hữu Thiên-Chúa cũng như sự-kiện Ngài gửi Thần Khí đến (tức: sự việc diễn ra vào lễ Ngũ Tuần), Ngài đến “dựng lều” ở giữa các tông-đồ để tạo sự-kiện duy-nhất, rất thiết-yếu.

Bằng việc tôn-vinh thánh-danh Thiên-Chúa nơi Đức Giêsu và đồng thời cũng là việc vinh-danh Đức Giêsu ngang qua Thiên-Chúa nữa. Thể theo Tin Mừng Gioan, tình thương-yêu anh em là bằng chứng rõ rệt ở thời hiện-tại, và là sự tham-gia có hiệu-quả và xác-thực vào sự quang-lâm duy nhất mang tính giải-thoát của Đức Kitô.

Tình yêu Thiên-Chúa là sự việc Ngài thực-hiện ở trong ta và qua ta, thế nên nếu như ta cũng làm như Đức Giêsu, tức minh-chứng bằng cái chết cũng rất tốt, dù chẳng có gì buộc ta phải làm như thế.

Điều mới mẻ, nói ở Tin Mừng Gioan là truyện kể về buổi “tạ từ” trong đó, trước giờ phút ra đi, Đức Giêsu đã đưa ra giới lệnh yêu thương cho đồ đệ của Ngài, như giới-lệnh sống động và điều này vẫn không phản-chống các giới lệnh từng có sẵn ở Cựu Ước.

Giới-lệnh này, có yếu-tố mới là: Đức Giêsu cần tỏ ra là Ngài sẵn sàng hy-sinh tánh mạng để xác-chứng là Ngài trung-thực với tình thương yêu ấy, thế nên Ngài không thể phản lại giới lệnh sống do chính Ngài yêu-cầu mọi người thực-thi. Chính vì lý-do này, mà các thư luân-lưu cuối của ông Gioan cho thấy tình-huống đã đổi nơi cộng-đoàn từng nhấn mạnh về giới-lệnh yêu-thương đến thế là cốt để củng-cố việc tuân-giữ giới-lệnh Chúa ban, có thế mới trở-thành đồ-đệ Ngài được.

Cuối cùng, lại cũng có hai khía-cạnh khác xuất-hiện ở thư này; một, là các phản-ứng chống lại một số thành-viên trong cộng-đoàn vốn bảo-tồn di-sản đạo-đức ở cộng-đoàn Gioan có chiều-hướng bí-nhiệm và đơn-thuần. Từ đó, đã thấy có sự gãy đổ xảy đến với cộng-đoàn Gioan vào thời đầu, tức: một cộng-đoàn đích-thực có sự hưng-phấn bí-nhiệm về việc Chúa hiện-diện nơi con người, và sự-kiện con người ở trong Chúa, có cung-cách khổ-đau nhục-hình qua thập giá mà Đức Kitô phải chấp-nhận noi theo.    

Hai là, gãy đổ biệt-lập khỏi “nền-tảng đạo-lý” vốn có xưa nay, lại đối đầu với các lập-luận và xung-khắc xảy đến bên trong cộng-đoàn tín-hữu vốn cứ đặt nặng chuyện ông Phêrô hỗ-trợ cho nhóm khác trong Giáo-hội thời đầu, để rồi ông phải trải qua cái chết rất đoạ-đày như Đức Giêsu Kitô. Trong khi đó, vị đồ đệ thần-bí được Thày yêu-dấu đã có mặt ở cộng đoàn Gioan lại chết theo cách khác, không có dấu gì chứng-tỏ là tử vì Đạo và chết cho Đạo cả. Đoạn văn sau này được thêm vào Tin Mừng Gioan (Ga 21: 18-23) rõ ràng cũng đã ám-chỉ về sự xung-khắc/đối đầu này.

Ý-nghĩa đích-thực về cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã giảm dần do việc một nhóm tín-hữu nào đó có mặt ở cộng-đoàn tiên-khởi vẫn diễn-giải sự việc như thế. Các tín-hữu này, từng nối-kết quà tặng sự sống vĩnh-cửu, khởi-đầu ở thế-trần qua truyền-thống sinh-hoạt ở cộng đoàn Gioan trên thực-tế với việc Đức Giêsu Nhập thể như đã định-vị “từ chốn trên cao” và với việc toàn thân Ngài ngập đầy Thần-khí, do bởi Ngài có “gốc nguồn từ trời đến”.

Sự việc như thế lại không đặt trọng-tâm vào việc Ngài sử-dụng tư-cách người phàm ngõ hầu hồi đáp lời mời gọi ngang qua cái chết rất tủi-nhục. Bởi, Ngài có chết như thế mới cải-biến mọi sự bằng tình thương của Đức Giêsu hầu cứu rỗi mọi người. (X. thư thứ nhất Gioan 4: 7-11; Ga 3: 16)

Tựu trung, ta có thể nói: nhiều thành-viên cộng-đoàn thời ban đầu đã sẻ-san cuộc sống phù phiếm cách sao đó với các vị từng diễn-giải một cách sai trái câu nói của thánh Âu Tinh khi xưa vẫn bảo: “Ama et fac quod vis” tức: “Hãy yêu đi, rồi cứ xử sự theo ý mình muốn”.

Nói chung thì, thư ông Gioan đã gây phản-ứng chống lại lối áp-dụng một cách sai lạc câu nói nổi tiếng đó. Bởi, hiểu cho đúng câu này, ta sẽ tóm tắt toàn-bộ giới lệnh sống kết-hợp với lời hứa và các điều răn ta từng nhận, tức: “làm theo lời Chúa”, hoặc biến thành hiện-thực những gì được Giáo hội ta lâu nay gọi là “10 điều răn Đức Chúa Trời.”

Theo Tin Mừng thứ tư, đây không chỉ là việc phản-bội lại tinh-thần của giới lệnh mà thôi, nhưng còn khiến cho lời khuyên yêu-thương ở Kinh thánh khác với điều mà Đức Giêsu từng nói và rao giảng ngay từ buổi đầu. Thư thứ nhất của ông Gioan đoạn 2 câu 7-8 có nói như sau:

“Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới
tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ
mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu.
Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe.
Nhưng đó cũng là một điều răn mới
tôi viết cho anh em, -điều ấy thật là thế
nơi Đức Giêsu và nơi anh em-,
bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”

Nói cách khác, câu đầu ở giới lệnh thương yêu do Đức Giêsu truyền dạy, được nối kết với việc tuân-thủ các giới-lệnh của Chúa, là trọng-tâm thông-điệp dành cho tín-hữu Đức Ki tô là việc tôn-vinh cách thần-bí ở trong Chúa và quyết-tâm bênh-vực người lân-cận vốn tiêu-biểu cho cộng-đoàn Gioan gần-gũi, thắt chặt với nhau hơn.

Giới lệnh yêu-thương của Đức Giêsu sẽ không thể tồn-tại nếu không có các điều răn của Chúa, dù nhóm tách riêng ở cộng-đoàn Gioan có muốn diễn-giải ý-nghĩa nói về các người anh, người chị trong cộng-đoàn Kitô-hữu, mà thôi.

Cho đến nay, nghĩa thật ở ý-niệm tình thương như giới lệnh sống mới mẻ mà Tin Mừng Gioan am-tường đã không được hoàn-toàn triển-khai cho mọi người hiểu. Rõ ràng là, trong khi Tin Mừng Nhất Lãm kể về bữa tiệc Tạ từ và “Giao-ước mới” thể-hiện nơi Thân mình và Máu thánh Đức Giêsu thì Tin Mừng Gioan cũng kể về bữa tiệc cuối nhưng không nhắc đến cái-gọi-là việc thiết-lập Tiệc Thánh như một nhắc nhở về “Giao-ước mới”, nhưng lại nói về việc phục-vụ bằng cách rửa chân, diễn-nghĩa cử-chỉ này như một biểu-tượng của giới-lệnh mới, thôi. Điều mới mẻ của tình thương yêu lại có điều gì rất mới dính-dự đến giao-ước mới, qua đó các truyền-thống khác của tín-hữu thời đầu cũng nói đến.  

Cụm từ “mới mẻ” – dù có áp-dụng cho giao-ước hoặc giới-lệnh về thương yêu- đều qui về một sự thật. Tự-vựng này diễn-tả điều gì đó rất đặc-thù của Đức Giêsu và của ông Gioan. Vẫn biết điều kiện sống của người phàm, giao-ước giữa Thiên-Chúa và con người, cả nam lẫn nữ, theo định-nghĩa vẫn luôn là giao-ước mới mẻ.

Điều thiết-yếu nơi giao-ước vĩnh-cửu của Thiên-Chúa đối với người phàm mỏng mảnh và dễ chết luôn là giao-ước rất mới, ngay trong Cựu Ước vẫn luôn mang tính-cách rất mới, theo nghĩa được cải-tân như lời ngôn-sứ Gêrêmia nói ở đoạn 31 câu 31-34) có ghi sau đây:

“Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
Israel sẽ tồn tại mãi.”

“Giao-ước” đây, chỉ để nói lên mối tương quan dễ bảo của Israel với Thiên-Chúa cao cả và lòng sủng ái rất tự do của người phàm, trong tình-huống tiêu-biểu cách đặc biệt của nhân-loại, như tình-trạng trong đó dân Do-thái đã cắt đứt quan-hệ với Chúa và cứ mãi duy-trì mối thâm-giao gián-đoạn dù thâm-giao ấy là do Thiên Chúa thiết-lập.

Lại không thể tránh khỏi sự kiện Tin Mừng Gioan cho thấy sự mới mẻ nơi giới lệnh yêu thương cứ nhắc đi nhắc lại nhiều hơn Tin Mừng khác chỉ nói đến “lỗi/tội của thế-gian”, thôi.

Tư tưởng ở Tin Mừng Gioan không qui về “thế gian” nói chung mà là “thế gian này”, tức hiện-trường phấn-đấu giữa những điều tốt/xấu, giữa sự sống và nỗi chết, một thế-giới với “thế-gian” trong đó ác-thần/sự dữ và cái chết xem ra đã toàn thắng, như thư thứ nhất từng nhấn mạnh:

“Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa,
còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.”    

Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, trên nền-tảng phân-tách một cách khoa-học, chúng ta dư biết rằng phàm nhân nào cũng đi vào với thế-giới trong đó nhiều địa-hạt được cấu-trúc trên bình-diện nhân-bản, tập-thể và xã-hội. Ngoài việc có được khía-cạnh riêng tư, bi-đát, ác-thần/sự dữ cũng có cấu-trúc lịch-sử như một quyền-uy/sức mạnh không tên tuổi.

Do có cấu-trúc như thế, “thế-gian” đây là nguồn-cội của sự kỳ-thị và tách-biệt, tức một thế giới của sức mạnh hung ác, một bầu trời sự sống đầy thù-hằn, chỉ muốn loại-trừ người khác, mà thôi.

Diễn-giải bằng ngôn-từ hiện-đại, tư-tưởng của ông Gioan diễn-tả “thế gian” này theo nghĩa kinh-tế thế-giới, tức hệ-thống cầm quyền và các mối tương-quan quyền-lực chính-trị theo địa-thế; và tất cả những gì họ đem đến, toàn những bất-công, nghèo-hèn và khổ đau, bạo-lực và sự chết, và cuối cùng là huỷ hoại thiên-nhiên. Đây, mới là lỗi/tội của thế-gian.

Bỏ qua một bên ý-nghĩa tiềm-ẩn về thể-xác hoặc sinh-lý của tự-vựng “tội nguyên-tổ”, Kitô-hữu chúng ta hôm nay (dù có vị cũng muốn như thế) đều không thể không biết đến cấu trúc đầy lỗi/tội của di-sản văn hoá và xã-hội của chúng ta, một cấu-trúc có trước công việc riêng tư cũng như các lầm lỡ của ta, và cùng lúc ta không thể tránh né kết quả do chúng đem đến.

Tầm-kích tội nguyên-tổ chỉ là khía-cạnh khe-khắt/khắc-nghiệt của thực-tế mỗi ngày ta sống vốn không thể đẩy lùi nó “đi-chỗ-khác” bằng nền thần-học hiện-đại, rất phức-tạp. Lâu nay, lịch sử của ta đã bắt đầu như thế từ thời cộng-đoàn Gioan sinh sống. Nó vẫn còn ra như thế ngoại trừ ngày hôm nay ta có được các phương-tiện trao-đổi để giáp mặt/đối đầu tiếp-tục một thực-tại như trên lãnh-vực thế-giới cũng như ở địa-phương.

Ở Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu cũng thấy là Ngài đang ở cùng một trận chiến tương-tự, cũng một vị-thế dễ bị thương-tổn giữa hai quyền-lực tốt/xấu. Rõ ràng Ngài quyết-định chọn-lựa công-bình và tình thương chống lại uy-lực của sự dữ bằng đường lối sống rất minh-nhiên. Ngài đã công-kích Đền thờ của Do-thái-giáo vì nơi đây biến thành chốn nương thân cho đám kinh-doanh/mậu-dịch làm lợi cho quân xâm-lược người La Mã cùng với giai-cấp tư-tế thuộc nhóm Sa-đu-xê (Gioan 2)

Đức Giêsu cũng tấn công đám người Giuđêa có thành-kiến chuyên nắm giữ Thiên-Chúa như thể tài-sản tư-riêng của họ, rồi chối bỏ đám người Samaritanô  bằng cách gọi những vị này là “bè rối” (Gioan 4). Ngài chống-đối một số giới-chức Biệt Phái cứ đặt lề luật lên trên cuộc sống con người (Gioan 5 & 9).

Ngài chống trả lề thói bạo-tàn của hệ-thống đạo-đức vốn là nguyên-cớ sự chết cũng như sự việc thứ tha (Gioan 8). Thiên Chúa cũng tham-gia dự-phần vào cuộc phấn đấu này/khác và Ngài nhất quyết làm như thế. Xem thế thì, Thiên Chúa vẫn đứng về phía Đức Giêsu. Theo ý Ngài, “Con Người” ở Tin Mừng Gioan hoặc bất cứ ai hoạt-động vì tự-do, vì sự thật và cuộc sống vẫn luôn làm công việc của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, ở chương 8 Tin Mừng này, bất cứ ai tạo nô lệ, gian-manh và sự chết đều dự phần vào công việc của ác thần/sự dữ (Gioan 8: 31-44). Tin Mừng Gioan luôn có hai mặt của sự thật chưa được gạn lọc qua lằn sáng hiện-đại vẫn soi chiếu và cũng không biết đến bóng rợp hiện-đại.

Tất cả mọi sự đều có hai mặt: trắng/đen, tốt/xấu, chứ tuyệt nhiên không lưng-chừng, ở giữa. Tuy thế, dù tất cả mọi phê-bình hợp-pháp về ý-niệm vũ-trụ ở Tin Mừng này, dù khía-cạnh tách riêng không chối cãi vẫn nổi trội với tình-huống đặc-trưng/đặc-thù, độc quyền trong Giáo hội, mà chỉ mỗi việc đọc nó lên cũng trở-thành một gợi nhớ kích-bốc đầy nguy hiểm cho mọi người rồi.

Bản văn Tin Mừng đầy tính thâm-thuý này đối với ta, cũng nói về một Thiên Chúa đã tạo Giáo-ước với người phàm vẫn tiếp tục lỗi phạm, trong khi phần Ngài vẫn luôn luôn đáng tin tưởng về lời Ngài hứa không điều kiện, dù con người luôn ngã gục và yếu ớt.

Thiên Chúa không thương-thảo với người phàm. Ngài chẳng bao giờ nói những câu như: “Nếu các người làm điều này, thì Ta đây, Thiên Chúa của các người cũng sẽ làm thế.” Thiên Chúa không đưa ra bất cứ điều kiện nào hết, nhưng Ngài vẫn rộng lượng mà không cần có lý do và Ngài luôn thuỷ chung ngay cả khi ta trở nên vô lý. Thành ra, Thiên Chúa thấy con người vẫn tiếp-tục phạm lỗi. Thiên Chúa chung-thuỷ với giao-ước Ngài thiết-lập, tức thứ Giao-ước luôn mới mẻ một cách đáng kinh-ngạc.

Tông đồ Phaolô từng viết ở thư gửi cộng đoàn Rôma đoạn 5 câu 8 những lời rằng:

“Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta,
ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”  

Và, ở thư thứ nhất ông Gioan cũng viết:

“Tình yêu cốt ở điều này:
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.”
(1 Gioan 4: 10)        

Cuối cùng, là truyền thống cộng-đoàn thời sau khi Phaolô khuất bóng đã có thư gửi tín hữu thành Êphêsô đoạn 2 câu 4 như sau:

“Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót
và rất mực yêu mến chúng ta”    

Giao-ước vĩnh-cửu mà Thiên-Chúa thiết-lập với con người thật ra mỗi ngày cũng đều mới cho tất cả những người phạm lỗi, nam cũng như nữ.

Cuối cùng, câu chuyện này vẫn có chi-tiết tế-nhị ở Tin Mừng Gioan mà mọi người đều nghe biết qua Phụng-vụ hôm nay. Tin Mừng đây, diễn-tả bằng tự-vựng bí-hiểm đối với ta, trong bối cảnh văn-hoá bí-nhiệm định-vị bên lề Do-thái-giáo mà ít người có khả năng nhận thấy.

Về buổi “Tạ từ” hôm ấy, Tin Mừng Gioan ghi lại chuyện xảy ra sau khi Giuđa Iscariốt ra dấu hiệu phản-bội thày, lại có câu nói của Đức Giêsu vẫn nhấn mạnh rằng:

“Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói:
"Giờ đây, Con Người được tôn vinh,
và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.
Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,
thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình,
và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.”
(Ga 13: 31-32)

Sau khi đưa những lời lẽ khó hiểu ở trên, tác-giả Tin Mừng Gioan lại để cho Đức Giêsu trao ban cho đồ đệ Ngài giới-lệnh yêu thương rất mới. Yêu thương, là ân-huệ Ngài nhận được từ Cha nay trở-thành di-sản để lại cho tín-hữu được giải-thoát, cứu-rỗi. Từ nỗi yêu-thương này, tín-hữu của Ngài đều nhận ra là họ rất phúc-hạnh vì được cứu rỗi.

Đối với ta, là những người có nền văn-hoá khác với Do-thái-giáo, thì: những câu lời đầy huyền-bí ở Tin Mừng Gioan không khác với Tin Mừng Nhất Lãm chỉ đơn-thuần trích lời Đức Giêsu khuyên dạy ở Kinh Lạy Cha thưa rằng: “Xin cho Danh Cha được cả sáng, Vương Quốc của Cha đến với chúng tôi! Công bằng và tình thương ở giữa người phàm vốn dĩ tạo nên vinh quang và vinh-dự của Thiên Chúa.

Còn, tình yêu-thương hay thay đổi của con người phàm-trần đối với nhau vẫn được công khai tỏ-bày bằng các dấu-hiệu của trần-thế về sự đoàn-kết và đùm bọc trong cùng sự kiện, để thấy rằng nơi con người Đức Giêsu, cùng một lúc Thiên Chúa được nhận/biết và con người từ đó được thánh-hoá. Thiên-Chúa và Đức Giêsu cũng như loài người đều được vinh-danh, trân-trọng. Và, “cả ba đã nên một”.

Thành ra, tầm nhìn theo con mắt của ngôn-sứ về “thế giới mới” qua đó bài đọc thứ nhất ở Phụng vụ cũng đã nói lên điều ấy. Điều ấy, tức cho thấy, rằng: nay đã đến thời ta không còn có thể tách rời khỏi thế-giới ta đang sống, như sách Khải Huyền đoạn 21 câu 3 cũng đã bảo:

“Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to:
"Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại,
Ngài sẽ cư ngụ cùng với họ.
Họ sẽ là dân của Ngài,
còn chính Ngài sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ.”         

Ở đây, ta thấy được đô-thị tình thương, là thành-đô xuyên suốt với cửa ngõ mở rộng về phía tứ phương địa bàn, Và, ở nơi đó, không còn ai là người lạ mặt hoặc di dân bị hạ-nhục ở trong đó. Tất cả mọi người anh, người chị cùng ở trong một tình thương yêu, kết đoànrất cảm-kích. Đây chính là tầm nhìn cuối của con người người về kinh-nghiệm của niềm tin từng được ông Gioan lịch-sử-hoá và lồng trong hai bộ mặt.

Thế nhưng, một phần thông-điệp đầy kích bốc và sống-động có liên quan đến ta và ở trong ta, ngày hôm nay. Đó, chính là lời tuyên-tín đầy đặn của tín-hữu, qua đó Thiên Chúa thành Đấng Cứu độ hiện-diện trong tình thương yêu nền-tảng của Đức Giêsu với con người và kết quả sẽ triển-khai từng ngày, từng năm chung quanh ta, luôn như thế.    

Quyền-năng thần thánh ấy và ơn cứu rỗi con người sẽ trở nên dễ thấy, và nay còn sờ chạm được trong lớp bụi mù của chúng ta đến độ chúng ta là các thế-hệ rất mới của tín-hữu sẽ sống mãi trong cùng đợt sóng tình thương với Đức Giêsu Kitô. Người phàm sống động vẫn cứ thương yêu và mở ra với những người đang khổ đau, chính đó là vinh-quang và danh-dự của Thiên Chúa, tất cả đều sùng-kính thánh Danh Ngài.

Vấn đề mà Tin Mừng hôm nay đề ra một cách đầy quyền-thế ở đây, lúc này, là như sau: sự thật là chúng ta, năm nay, trong lớp mù sương gồm những thứ đang xảy đến với thế-giới của ta, đã chia cách và gần gũi với ta, hoặc có khi ở cùng khu xóm với ta, cùng gia đình hoặc cộng đoàn của ta; hoặc trong đời sống tư riêng của ta, đều được nhận biết như nhân-thân được giải-thoát, tức: những người đem tự-do, những người được cứu-rỗi nên đã đem ơn cứu độ đến với mọi người, qua tư-cách con người phàm-trần được hoá-giải và từ đó cũng đem sự hoá-giải đến với mọi người đấy chứ?

Chính đó là thông-điệp đầy kích-động ở Tin Mừng ngày hôm nay.      

No comments: