“Trở
thành một dấu chỉ hy vọng cho người nghèo”: đây là ơn gọi của chúng ta,
những tu sĩ DCCT.
Tính ngôn
sứ, tên gọi khác của hy vọng
Đổi mới
hy vọng, một điều rất quan trọng trong chủ đề lục niên và trong Thông Điệp Cuối
Cùng của Tổng Công Hội, không phải là vấn đề nội bộ của Dòng. Như Đức Thánh Cha
Phanxicô đã từng nói khi còn những ngày đầu triều đại giáo hoàng của ngài, sứ
vụ truyền giáo trở thành nỗi chán nản và nội tâm khô cằn nếu nó không được sống
với Đức Kitô vì dân chúng, nếu nó không dẫn đưa ta tới “xức dầu hy vọng” cho
những con người “hoàn toàn không có gì”.
Do đó,
đổi mới hy vọng trở thành trách nhiệm lớn lao, và thách thức chúng ta xem xét
lại cách thức chúng ta sống và làm việc trong thế giới này. Trong Thông Điệp
Cuối Cùng, Tổng Công Hội chỉ rõtính ngôn sứ như là một cách thức diễn tả
nguyên lý căn bản sự hoán cải của chúng ta (số 8). Đặt sang một bên việc sử
dụng hoặc việc lạm dụng từ ngữ tính ngôn sứ, thời đại chúng ta ra lệnh cách
khẩn cấp cho ta phải nói lời ngôn sứ. Nếu chúng ta có khả năng đọc dấu chỉ thời
đại (x.Mt 16, 3), chúng ta sẽ nhận ra rằng tính ngôn sứ thì cấp thiết hơn lương
thực cho thế giới này.
Toàn bộ
lịch sử đằng sau chúng ta đã có ơn cứu độ như động lực không mệt
mỏi của nó. Chiến tranh, xâm lược, câu hỏi về thần học và nghiên cứu triết học,
phát minh, cuộc cách mạng, di cư của con người và nghệ thuật trong hàng nghìn
cách diễn tả của nó: trong rất nhiều cách thức, bao gồm cả những người lầm đường
lạc lối nhất, nhân loại đã bước đi trong chân trời cứu độ. Giấc mơ hạ bệ những
người quyền thế từ ngai vàng của họ và nâng cao những người hèn mọn đã nuôi
dưỡng hy vọng cho nhiều thiên niên kỷ. Ngày nay sự cam chịu chiếm ưu
thế. Lúc này Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4,18) dường như chỉ là một mẩu tin
nhỏ bé giữa rất nhiều tin khác. Chỉ một tiếng hót líu ríu, nhưng chẳng có ý
nghĩa gì.
Quyền lực mà chúng ta đang chiến đấu chống lại, thì quá mạnh
không có khả năng tự vệ, xúc tua của nó thì vô số: từ sự tập trung giàu có đến
sự nhiễu nhương của quảng cáo, tới sự xa lánh được đưa tới bởi vật trung gian,
tất cả mạnh đến nỗi làm chúng ta mất hết cam đảm, đặc biệt ở góc độ các phương
thức tầm thường của chúng ta.
Đôi khi
dường như không có sự chọn lựa để sống và nghĩ theo cách này, mà bản ngã thích
bị hư danh và bị quyến rũ, và thường thờ ơ. Chúng ta biết rằng một chọn lựa tồn
tại, và chọn lựa đó thuộc về những ai sống bởi đức tin, những người nhìn thực
tại không như nó bị bóp méo bởi con người, nhưng nhìn giống như Thiên Chúa đã
có ý định về nó. Chính tình cảnh đúng đắn này kêu gọi tính mãnh liệt to lớn cho
một lời đáp trả, sự đáp trả của các ngôn sứ.
Chính
Đấng Cứu Thế bảo ta rằng đó là tội làm theo, và nó thích hợp để giận dữ trong
sự hiện diện của một lời nói dối mà nó đòi hỏi phải có quyền thành công cùng
với phương châm này. Cái “không” của chúng ta phải can đảm và mạnh mẽ khi đối
mặt với quyền lực của thế gian này và của vương quốc mỏng manh này.
Lời Chúa
là ánh sáng chỉ đường con đi
Tin Mừng Ga
4,34-38: Ở đây chúng ta sẽ tự giới hạn mình để nêu ra hai chủ đề làm
cho đoạn Tin Mừng này thành một hình tượng cho sự đổi mới hy vọng.
·
Cái nhìn
của Chúa Giêsu có hai điểm trọng tâm: ở cấp độ đầu tiên những cánh đồng
lúa đang trĩu hạt; trong bối cảnh những người Samari đang đến, sau cuộc gặp gỡ
giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Xy-kha. Những người bên ngoài,
“những người bị rút phép thông công”, là những hoa trái đầu tiên của vụ gặt.
Người phụ nữ Samari cũng như thế, chính cô là ‘một người bên ngoài luật’, trở
thành một nhà thừa sai giữa những đồng bào của cô. Hy vọng được sinh ra ở nơi
mà, nói theo cách con người, chúng ta không nhìn thấy bất cứ một nền tảng hy
vọng nào.
·
Chúa
Giêsu trích dẫn lời sách Châm Ngôn cũng là một nguồn hy vọng: “người này gieo,
kẻ khác gặt”. Gieo và gặt là hai mặt của cùng một đồng tiền. Chúa Giêsu là hạt
giống trổ sinh hoa trái (x.Ga 12, 24). Lời Ngài là hạt giống mà các môn đệ sẽ
loan báo cho toàn thế giới. Cùng một lời chúng ta nghe ngày hôm nay. Mùa gặt
đang đến giữa chúng ta. Nhưng mùa gặt sau cùng vẫn còn xa trong tương lai. Song
chúng ta vui mừng ngay từ ngày hôm nay trong sức sống của hạt giống này.
Từ truyền
thống Dòng Chúa Cứu Thế
Chúng ta,
những tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, có thể chọn một nơi như là biểu tượng cho hy
vọng của chúng ta: Đó là một căn phòng nhỏ ở Ciorani nơi mà, vào tối ngày 21
tháng 07 năm 1740, thánh Anphongsô cùng với các cha Mazzini, Sportelli, Rossi
và các thầy Rendina, Tartaglione, Gaudiello và Curzio đã làm lời khấn bền đỗcủa
mình.
Khi Dòng
chưa được châu phê bởi Đức Giáo Hoàng, thì vua nước Napôli đã làm cho đời sống
của các bạn đồng hành hầu như không thể hoạt động được. Để giữ những người bạn
đồng hành này lại cùng nhau, không có bất cứ nguyên tắc nào, nhưng chỉ có một
‘ý định’ mà Anphongsô, mặc dù vẫn ở dưới quyền giám hộ của đức cha Falcoia,
đang cố gắng tập trung. Không một ai có thể đưa ra bất cứ một sự đảm bảo nào về
sự sống còn cho nhóm người này. Mỗi người trong nhóm được tự do chọn lựa hoặc ở
lại hoặc ra đi. Và lúc ấy chính các ngài cam kết hiến dâng đời sống các ngài
cho ơn cứu chuộc chứa chan. Vì đối với các ngài, thật đủ để biết rằng công việc
rao giảng của các ngài về Chúa Giêsu Kitô cho người nghèo ở vùng miền quê sẽ
không có kết quả.
Đó không
phải là một sự tình cờ mà tiểu sử gần đây của đấng sáng lập của chúng ta được
đặt cho tên “một vị thánh của những người không có hy vọng”. Đó là một
sự phát hiện về ‘những người hoàn toàn không có gì’ đã làm đảo lộn kế hoạch của
Anphongsô và làm cho Anphongsô phải nói rằng: dâng hiến đời sống cho những
người thôn quê này thì “mình có thể phải ở lại một mình”. Tuy nhiên, con cái
của Anphongsô đã phải vượt qua Mũi Hảo Vọng.
Chọn lựa
của những người này thì mang tính ngôn sứ, cho dù là họ không làm bất cứ
một điều lớn lao nào. Cách thức của họ là công bố, đối diện với chính phủ của
Vương quốc và của Giáo Hội, phẩm giá của con người, phẩm giá của toàn bộ con
người bị “lãng quên”, bị bỏ mặc. Để đến bên cạnh những người bị bỏ rơi,
và để hiến dâng toàn thân như một sự giúp đỡ cho sự tăng trưởng về mặt thiêng
liêng và nhân bản, thì giống như “một tiếng kêu gào lớn” trước các chính sách
mà nó đã khước từ lẽ sống, cụ thể đó là sự phục vụ.
Chính
trong cách thức của sự tiên đoán khiêm nhường và can đảm này mà các thánh và
chân phúc của chúng ta đã hành động. Một vài người trong số họ phải “cương
quyết”, như bản văn Hy Lạp của Tin Mừng Lc 9,51 đặt vào, nói về Chúa Giêsu
đã quyết định lên Giêrusalem. Đây là điều các vị tử đạo Tây Ban Nha và những vị
ở Đông Âu đã làm, một số người trong số các vị tử đạo thậm chí đã phải chịu sự
đau đớn tàn ác hơn.
“Không
một ngôn sứ nào của quá khứ hay của hiện tại lại chết một cách tự nhiên”,
Leonardo Boff nói. Điều này có thể làm cho chúng ta hoảng sợ.
Hiến Pháp
ngày nay
“Trở
thành một dấu chỉ hy vọng cho người nghèo”: đây là ơn gọi của chúng ta. Nhưng
nó sẽ là có thể chỉ khi chúng ta có một lối sống thực sự nghèo, trong
mối tương quan với những người mà chúng ta phải truyền bá Tin Mừng cho họ (HP.
65). Điều này cũng có nghĩa là mang tính ngôn sứ.
Một lần
nữa, chính Đức Kitô chúng ta phải nhìn vào. Không giống như các kinh sư, Chúa
Giêsu dựa vào thẩm quyền vềmẫu gương đời sống của Ngài (Mt 7,29), và
không nghiêm khắc theo các lý thuyết hoặc sức mạnh của các lời có sức quyến rũ.
Chúa Giêsu gần gũi với mọi người, Ngài đã chia sẻ sự đau đớn của họ và
vì lý do đó, Ngài đã giận giữ. Chúa Giêsu gây ấn tượng sâu sắc trong việc giảng
dạy của Ngài bởi vì Ngàihiện thân của những điều Ngài giảng.
Phần
chúng ta, chúng ta phải thừa nhận rằng, qua nhiều thế kỷ Giáo Hội đã được quan
tâm nhiều hơn với việc mang lại những hiệu quả hơn là gương mẫu.
Chúa
Giêsu đã nói gì với mỗi người chúng ta lúc này? Có lẽ Ngài sẽ không yêu cầu
chúng ta chỉ giành một vị trí cho thế giới này trong trái tim đóng băng của
chúng ta; nhưng Ngài sẽ cầu khẩn chúng ta đi vào nỗi đớn đau của thế giới này,
để hướng tới tất cả những người bên lề xã hội, thuộc địa lý cũng như
thuộc sự sống còn, ít nhất là lắng nghe tiếng khóc than cho ơn cứu độ đang trỗi
dậy trong lòng họ.
Ngài
cũng sẽ hỏi chúng ta làm mọi thứ có thể để lối sống cá nhân của chúng ta và
cách thức chúng ta dự kiến như một cộng đoàn có thể diễn tả một điều gì đó khác
từ sự lựa chọn giữa hai hoặc nhiều khả năng cho thế giới, mà những thế
lực mạnh mẽ của thế giới này muốn chúng ta “phục tùng” và thậm chí là phải
ngoan ngoãn. “Cuộc khủng hoảng thực sự không được biểu hiện bằng những con
số, nhưng nó mang tính tiêu cực”, như Communicanda 3 đã nói như thế vào năm
1904, khi Communicanda 3 mời gọi chúng ta đọc dấu chỉ thời đại của mình.
Chúa
Giêsu sẽ yêu cầu chúng ta công bố, với sự cam đảm lớn hơn và với những lựa chọn
mang tính mục vụ, Tin Mừng của Chúa cho các bạn trẻ. Nếu Đức Thánh Cha
Phanxicô nói với những người này: “đừng để cho họ cướp lấy hy vọng của các bạn”,
đó là bởi vì ngài biết các bạn trẻ bị đặt vào tình thế nguy hiểm nhiều như thế
nào đối với việc ảo tưởng về những giải pháp dối trá và dễ dàng đạt được. Và về
phần chúng ta, chúng ta biết các bạn trẻ cần chúng ta nhiều như thế nào, về
phương diện từ bỏ chính mình, nhưng trên tất cả là về tính xác thực.
Kết luận
Thật tốt
để bày tỏ ý định của chúng ta cách tự do khi cầu nguyện. Cụ thể, chúng ta cần
nhớ:
·
những nạn
nhân của bất công.
·
người
nghèo và người bị bỏ rơi sống gần cộng đoàn chúng ta.
·
các bạn
trẻ và những khát khao của họ về một đời sống thực sự.
·
các Tu sĩ
Dòng Chúa Cứu Thế đã tự ràng buộc mình với những lựa chọn dũng cảm và mang tính
ngôn sứ.
·
những
giáo dân cộng tác với chúng ta trong việc công bố ơn cứu chuộc chứa chan.
·
những
ngôn sứ của thời đại chúng ta.
Học viện
Thánh Anphongsô (theo cssr.news)
No comments:
Post a Comment