*
Chương 4
Nghiên-cứu thần-học
(Bài 12)
Lâu
nay, hẳn người đọc đều nhận ra được sự biến-hoá trong quá-trình suy-tư thần-học
của riêng tôi. Khi trước, tôi khởi-công làm việc này qua các bài bình luận về những
gì khiến ta gọi được là “Sacra doctrina” (tức:
Đạo-lý thánh-thiêng) nơi công-trình của thánh Tôma Akinô. Đó không phải là Đạo-lý
thánh-thiêng của Giáo-hội, nhưng Kinh Sách không chỉ bao gồm mỗi Thánh kinh mà
thôi, nhưng cả đến những bài suy-luận của các tổ-phụ và toàn-bộ truyền-thống
Kitô-hữu nữa.
Hiện
đang có hai nguồn tư-tưởng nơi công-trình của thánh Tôma Akinô: một, chấp-nhận
sử-dụng đạo-lý thánh-thiêng có qui-chiếu về với thần-học; còn nguồn tư-tưởng
kia lại quyết rằng: thần-học bắt đầu bằng Kinh thánh và còn bảo rằng:
Kinh-thánh là nền-tảng của mọi thần-học. Thần-học là Kinh-thánh, vốn dĩ trải
dàn ra trong lịch-sử. Giai-đoạn đầu suy-tư thần-học của tôi, tôi đã theo
phương-pháp đạo-lý thánh-thiêng.
Hồi
thập-niên 1960’, song song với sự xuất-hiện của khoa-học nhân-văn, đã thấy xảy
đến làn sóng chỉ-trích xã-hội, văn-hoá, ý-thức-hệ và cả nền thần-học như một kỷ-luật
dành cho thần-học. Tôi dõi theo khuynh-hướng này cũng đã lâu.
Thành
thử, tôi mới vào đến giai-đoạn chú-giải đặc-biệt vốn dĩ là loại-hình sánh vai
nhau mà phát-triển các giai-đoạn bình-phẩm không thương tiếc. Tôi đã giáp mặt với
vấn-đề giải-thích các bản-văn này khác là bởi vì khoa chú-giải Kinh-Sách-cổ như
vậy mà chưa ai biết tới, cả trong phạm-vi Công-giáo lẫn Thệ-Phản. Mọi người đều
nói, thay vì để cho đạo-lý biến-hoá rộng. Trước tiên, tôi nói về sự biến-hoá của
đạo-lý, rồi sự biến-hoá của truyền-thống tín-hữu Đức Kitô và vào thập-niên
1960’, lại nói về khoa Chú-giải Kinh-Sách-cổ. (*1)
Chú thích:
(*1) Chú-giải Kinh-thánh là việc ‘thông-ngôn/phiên-dịch’ còn
‘chú-giải Kinh-Sách-cổ là ‘khoa-học về thông-ngôn/phiên-dịch’ có vai-trò điều-nghiên
việc giả-định trước sự việc chú-giải Kinh thánh hoặc thông-ngôn/phiên-dịch như
về Kinh thánh, chẳng hạn. Công việc điều-nghiên này thật cần-thiết do bởi sự tiến-hành
trải rộng chân trời kinh-nghiệm của ta, của những suy-tư ta có và cả đường-lối
diễn-tả các trải-nghiệm ấy.
Rồi
sau đó, tôi lại nắm bắt khuynh-hướng tiến vào địa-hạt cấu-trúc-luận (*2)
(*2) Cụm-từ ‘Cấu-trúc-luận’ qui về trường-phái
ngữ-học rất khác-biệt là trường lớp có chung sự-kiện bảo rằng chúng đặt nền-tảng
của ngôn-ngữ học lên trên việc học-hỏi những gì lâu nay được nói đến, cố tìm
cách định-nghĩa cấu-trúc của chúng (như: ngành kiến-trúc với sự độc-lập của các
yếu-tố nội-tại), trong khi mọi sự đều qui về cách phát ra âm-thanh/biểu-tượng của
chúng, như: chủ-thể và tình-huống, bị đặt ra ngoài cuộc nghiên-cứu.
Với
tôi, khoa chú-giải Kinh-Sách-cổ đơn-giản chỉ là vấn-đề chú-giải hoặc
thông-ngôn/phiên-dịch cổ-bản mà thôi. Đó là ngành khoa-học về
thông-ngôn/phiên-dịch vốn dĩ điều-tra/nghiên-cứu các giả-định có sự
thông-ngôn/phiên-dịch từ trước đó.
Trong
chương đầu tập 3 sách Kitô-học, tôi đã phác-thảo nét chính của tổng-hợp cấu-trúc
về kinh-nghiệm của con người. Tôi nói về kinh-nghiệm của lòng tin trong Kinh
thánh không được hiểu như thần-học về lời; bởi lời của Chúa là lời của các bản-thể
con người nói về Thiên-Chúa. Điều này, như thể bảo: lời lẽ của Kinh thánh là lời
của Thiên-Chúa đơn-giản chỉ có nghĩa đó
là chuyện không có thật. Đó chỉ là lời của Thiên-Chúa nói một cách gián-tiếp,
mà thôi.
Các
bài viết trong Kinh Sách đều là những chứng-từ mang tính nhân-bản về
Thiên-Chúa, do những con người lâu nay sống có lịch-sử và có kinh-nghiệm về
Thiên-Chúa. Khi Kinh Sách bảo rằng: “Thiên-Chúa
đã nói điều ấy, Đức Kitô đã nói lên điều ấy…”, thì không phải là Thiên-Chúa
hoặc Đức Kitô đã từng nói điều đó theo nghĩa chặt-chẽ, mà là các bản-thể người
đã nói lên kinh-nghiệm của họ về Thiên-Chúa. Kinh-nghiệm của họ đến từ Thần-Khí;
nên theo nghĩa này, ta có thể nói một cách cũng rất đúng rằng Kinh thánh đã nhận
được nguồn-hứng từ đâu đó, để viết ra.
Tuy
nhiên, cùng một lúc, ta cũng nên nhớ về sự trung-gian của người phàm mang tính
lịch-sử, rất ngẫu-nhiên. Con người chẳng bao giờ lại đối đầu trực-tiếp với
Thiên-Chúa theo cách mặt-đối-mặt được. Việc Giáp mặt như thế luôn ngang qua các
trung-gian. Thế nên, chính các bản-thể người mới nói về Thiên-Chúa, mà thôi.
Đây
là điều rất quan-trọng đối với nghiên-cứu thần-học và có thế, ta mới hiểu được
sự biến-hoá của các tín-lý về đạo. Ta không thể hiểu được nền thần-học mới mà lại
không có ý-niệm về mặc-khải của Thiên-Chúa được biểu-thị ngang qua lịch-sử, cả
đến ý-niệm về kinh-nghiệm về thông-ngôn/phiên-dịch của các bản-thể người nữa. Một
khi việc thông qua trung-gian không được chấp-nhận, thì con người không tránh
được việc trượt/lướt vào trào-lưu chính-thống-hoá mọi sự.
Phương-pháp
thần-học của tôi đặt nền-tảng lên kinh-nghiệm của con người và tín-hữu Đức
Kitô, chung cũng như riêng. Tôi áp-dụng điều đó vào truyền-thống vốn dĩ chỉ là
kinh-nghiệm trở-thành phổ-cập. Tính-cách cá-nhân của con người được bao gộp vào
với kinh-nghiệm chung của nhiều người, ra như thế. Trong suy-tư thần-học, tôi
tiếp-tục áp-dụng phương-pháp kinh-nghiệm về mọi sự.
Đối đầu với công-cuộc hiện-đại hoá
Đã
từ lâu, tôi từng phân-tách tính hiện-đại-hoá có từ Nicholas Cusa đến các nhà hiền-triết như: Descartes, Leibniz và Pascal. Có một năm, tôi dạy cho học-viên nói Karl Marx là sản-phẩm của hiện-đại-tính là
một mặt, còn mặt kia là phê-bình tính-cách chủ-quan vốn nằm bên trong phần cốt
lõi của hiện-đại-tính.
Nay,
tôi lại thấy xã hội mình có khuynh-hướng chống-đối tính hiện-đại, lại coi đó
như thể-loại chống-báng Đức Kitô. Đức đương-kim Giáo Hoàng xem ra cũng chối bỏ
tính hiện-đại bằng một dự-án do ông thành-lập để tái-phúc âm-hoá Châu Âu. Đức
Giáo Hoàng đây bảo rằng: hiện ta có nhu-cầu quay về lại với Châu Âu thời xưa/cũ
của Cyrillô và Mêtôđiô, thứ Châu Âu của thánh Biển Đức. Còn với Đức Gioan Phaolô
Đệ Nhị thì, việc quay về lại với Đạo Chúa của thiên-niên-kỷ đầu đời là thách-thức
to lớn. Sau đó, dõi theo các thế-kỷ đầy những giáo-phái đã ly-khai, tách rời. Lúc
đầu, là việc tách rời của Giáo-hội Đông Phương, sau đó là việc cách-ly ngay bên
trong Đạo Chúa ở Phương Tây.
Vào
thiên-niên-kỷ thứ hai, Châu Âu suy sụp và cùng với Châu này, toàn-bộ nền
văn-hoá Phương Tây cũng bị như thế. Ngõ hầu tái Phúc-Âm-hoá Châu Âu, lúc ấy đã
có nhu-cầu lướt/vượt tính hiện-đại và tất cả mọi giá-trị tân-tiến để quay về lại
với thiên-niên-kỷ thứ nhất. Trở về lại với Đạo Chúa của thôn làng, là mẫu-mã của
mọi hình-thức của Đạo. Nếu quả là như thế --tôi thêm vào điều này—nếu thế, lại
cũng có nhu-cầu là phải có can-đảm để chấp-nhận nền thần-học về thừa-tác-vụ hồi
thiên-niên-kỷ đầu đời.
Thế
nhưng, Đức Giáo Hoàng đây không nói gì về chuyện đó. Đạo Chúa trước thời hiện-đại-hoá,
Đạo của nông thôn không có gì để phê-phán, là mẫu mã của Đạo Chúa theo như
tư-tưởng của Đức đương kim Giáo hoàng mình, khi ngài bảo: “Hỡi nước Pháp, ta đã làm gì để rửa tội cho ngươi, đây?”
Đó,
là lối nói tiêu-biểu cho việc trở về này. Tôi đả kích việc quay về như thế bởi
lẽ các giá-trị hiện-đại của tự-do tín-ngưỡng, sự chịu đựng và tôn-giáo thật ra
không là giá-trị của thiên-niện-kỷ đầu, như thế đâu.
Có một lúc, ngài nói về tục-hoá đạo-giáo.
Chuyện này tôi thấy hấp-dẫn lắm.
Ngài có nghĩ cụm-từ này đã lỗi-thời rồi không?
Với
tôi, việc tục-hoá đạo-giáo đang là ý-niệm không được mọi người hiểu đúng cách
cho lắm. Tôi, thì tôi hiểu việc tục-hoá như một hiện-tượng lịch-sử và văn-hoá
qua đó thế-giới và xã-hội được hoạch-định bên trong chân trời của lý-trí cần nhận-thức.
Bản-thể người đã lên kế-hoạch về thế-giới và hoạt-động có tầm nhìn về tương-lai.
Và theo cung-cách này, một nguồn-mạch bị biến mất mà từ đó đạo-giáo thật sự được
nuôi-dưỡng trong quá-khứ. Tôi hiểu việc tục-hoá theo nghĩa trái đất có quyền tự
định-đoạt cho thân-phận của mình.
Các
giám mục và Rôma nhìn việc tục-hoá đạo-giáo như đầu mối của ác thần, sự dữ. Các
ngài lên án việc tục-hoá vì làm cho ý-nghĩa của đạo-giáo nên chán-chường, và đại
loại như thế. Rõ ràng là việc tục-hoá đã làm chuyện đó, thế nhưng đây là một hiện-tượng
hoàn toàn khác hẳn việc tục-hoá đạo giáo.
Thành
thử, tôi thích nói về tính hiện-đại, hậu hiện-đại, cả vào khi nó là cụm-từ tối-nghĩa
và đầy tính kích-bốc. Hiện có tính-cách hậu hiện-đại trong điều-kiện sống hiện-tại
qua đó các bản-thể người là một cấu-trúc.
Các sách tôi viết
Hiện
có sự khác-biệt nơi dự án tôi từng có trong đầu và các công việc mà thỉnh-thoảng
tôi mới thực-hiện. Ở Đại-học Nijmegen, tôi
không buộc phải dạy các khoá học đã định-sẵn, mà chỉ phải dạy về các vấn-đề
này/nọ, mà ta đang giáp mặt/đương-đầu thôi.
Khi
ấy, tôi được quyền tự mình chọn lựa chủ đề để đứng lớp. Mãi đến cuối thập-niên
1960’ vào thời buổi có các xung-đột lớn. Các học-viên đã ép tôi phải nhượng-bộ;
tôi tiếp tục dạy các môn như thế và cũng đương-đầu với một số đề-tài nổi-cộm.
Ở
Louvain, tôi buộc phải dạy các môn bắt-buộc;
còn ở Nijmegen, tôi lại có thể lựa-chọn
môn dạy theo ý thích. Tôi đã tập-trung các suy-tư của mình vào môn
cánh-chung-luận và Kitô-học. Thế nhưng, mặt khác, tình-huống xảy đến đã dẫn tôi
đến chuyện nắm bắt các chủ-đề đặc-thù đôi lúc cứ gặp phải do tình-trạng riêng-biệt
đưa đẩy tới.
Trong
các tạp-chí thần-học như: Concilium,
Tijdschrisft voor Theologie, vv.. tôi đã cho ấn-hành các bài viết có
liên-quan đến các sự-kiện xảy ra trong Giáo-hội và thế-giới. Một mặt, theo
nghĩa nào đó, tôi đã dạy môn thần-học theo bối-cảnh; mặt khác, tôi lại cứ tiếp-tục
dự-án do mình đề ra. Ba tập sách về Kitô-học
đôi lúc cũng bị đứt đoạn do bởi các khủng-hoảng trong Kitô-học ngang qua thần-học,
dù có là thần-học Thệ-Phản hoặc Công-giáo cũng thế.
Đó
là dự-án cá-nhân luôn khiến tôi hứng chí thực-hiện. Trong những năm gầy đây,
tôi đã bắt đầu bàn-thảo về “tạo-dựng” có liên-quan đến cánh-chung-luận.
Nghiên-cứu này, vẫn còn tiếp-tục. Tuy nhiên, các sách do tôi viết về thừa-tác-vụ
đã thôi-thúc vì tình-hình mục-vụ ở Hoà-Lan và từ đó, phản-ánh với thế-giới
Công-giáo.
Nói
tóm lại, một mặt, thì một số bài viết hoặc sách vở có tính bối-cảnh, được
thôi-thúc bởi các sự-kiện và các vấn-đề này/khác dù chuyện đó có xảy ra trên thế-giới;
hoặc, trong Giáo-hội của Chúa; còn mặt khác, lại có nhiều việc cứ nảy-sinh từ dự-án
tư riêng của tôi. Trên hết mọi sự, thì việc viết lách đa phần là về Kitô-học.
(còn
tiếp)
Lm Edward
Schillebecckx chuyện
trò với Francesco Strazzari
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment