Saturday 27 September 2014

Lm Nguyễn Thề Thuấn CSsR: Ca vịnh 13




CA VỊNH 13
Dàn bài : 2-3 : Lời than vãn của người khấn : hình thức câu hỏi
                                                                                                                                4-5 : Lời khấn xin
                                                                                                                                   6 : lời trông cậy cùng tạ ơn.
Cảnh huống : Câu 4 thường được chú ý. Hình như người khấn đây bị trọng bịnh hầu chết được. Nhưng không thấy có một dấu gì về bệnh tình của người đo. Điều đau đớn đích thực thấy được là sự xa cách Thiên Chúa, sự nghiệm thấy sự thịnh nộ của Thiên Chúa. Và về phương diện này thì tương tợ với cá nhân, và thực thì hình thức và các thành phần của loại ai ca được dễ nhận ra trong ca vịnh này cách riêng.
Điều quan trọng hơn cả trong phần thứ nhất của Ca vịnh (câu 2-3) ấy chính là cái đau đớn vô lưòng khi bị Thiên Chúa bỏ. Không phải là một bệnh tật nào dưới một hình thức hăm dọa sinh mạng trực tiếp là người khấn run sợ, nhưng chính là việc đoạn giao với Thiên Chúa. Người khấn cảm thấy sự thịnh nộ của Thiên Chúa. Sự đau đớn này muốn hiểu đến mút cùng thì phải đặt với lời trong Mt 27,46 : Chúa Kitô trên thập giá. Lời cầu xin thoát chết trong Cựu ước có nghĩa là được thoát khỏi mọi mãnh lực hăm dọa liên lạc với Thiên Chúa. Xin cho địch thù đừng được dịp sung sướng về người thờ kính Thiên Chúa. Và đó đã là cuộc thắng trận trên những mãnh lực muốn làm tách biệt khỏi Thiên Chúa.


Friday 26 September 2014

Lm Kevin O'Shea CSsR: Cứu-chuộc thế-gian và lập-trường của nhiều người



Chương Bẩy 
Cứu-Chuộc thế-gian
qua các đạo trên trần-thế
(bài 34)


                     

Phần 1:
Cứu-chuộc thế-gian
và lập-trường của nhiều người



“Bất cứ sự thật nào, dù do ai nói, cũng đều xuất từ Chúa Thánh Thần.” (Thánh Tôma Akinô)

“Hội-thánh Công-giáo không chối-bỏ bất cứ thứ gì là sự-thật và lành-thánh nơi đạo khác. Hội-thánh có tầm-nhìn cao-cả về sự sống, hạnh-kiểm, giới-luật cũng như các tín-điều mà, qua đó, dù có khác-biệt về đường-lối giảng-dạy, vẫn phản-ánh sự-thật trên muôn dân”. (Công Đồng Vaticăng II: Hiến chương “Thời Đại Con Người”, đoạn 2)

“Các tôn-giáo có hệ-thống như Phật-giáo, Ấn-Độ-giáo vẫn có đặc-trưng riêng về Chúa Cứu Chuộc thật rõ nét”. (Tông-thư Tiến Vào Thiên Niên Kỷ thứ 3, đoạn 30)

“Không còn gì nghi-ngại để bảo rằng: Phật-giáo là một trong các đạo-giáo tâm-linh cao-cả đối với lịch-sử loài người”. (Henri de Lubac, Aspect du Buddhisme)

“Năm 1988, khi tiến dần vào cuối đời, tác-giả Hans Von Balthasar đã từng viết: cuộc đối đầu giữa Thiên-Chúa-giáo và các tôn-giáo khác ở Châu Á có tầm quan-trọng đáng kể với Đạo Chúa hơn cả cuộc đối đầu giữa văn-minh Kitô-giáo và Hy-Lạp.” (Dấu-chỉ của Đối-thoại thực là Hoà bình – Phát-biểu của Đức Gioan Phaolô II tại Assisi hôm 24-1-2002)

Cũng nên xem thêm tài liệu của Thánh bộ Giáo-lý Đức tin có tựa-đề là “Suy-gẫm về Đạo Chúa” phổ-biến vào năm 1989 và Tông-thư do Đức Gioan Phaolô II viết vào năm 1994 mang tựa-đề: “Tiến Vào Thiên Niên Kỷ thứ 3”. Trước khi về lại với Tông-thư này, cũng nên đọc thêm bài viết “Đức Giêsu là Chúa” do Đức Hồng Y Ratzinger ký năm 2000, khi ấy Thánh Bộ Giáo-lý Đức tin, có nói: “Điều này xúc-phạm hầu như toàn-bộ các giáo-phái khác của Đức Kitô về quan-điểm của Toà Thánh trong thế-kỷ vừa qua. Điều này lại cho thấy Hội-thánh vẫn coi các đạo-giáo khác trên thế-giới vẫn khiếm khuyết một cách trầm trọng”. (x. E. Stourton, John Paul II: man of history)

Ngoài ra, ba đề-tài chính vẫn liên-quan với nhau, là: khoa học và niềm tin, Giáo-hội và thế-giới hiện-đại, tôn-giáo thế giới và chính họ.            

“Giờ của Châu Á đã cảnh-báo Giáo-hội ta”. (Hồng Y Ivan Dias, tân Bộ-trưởng Thánh-bộ Truyền-bá Phúc-âm, đã nói như thế vào ngày 23/5/2006)

                                                -----------------


                        Ghi chú:
Năm ngoái, cũng có buổi Hội-thảo lớn tổ-chức tại Toulouse, Pháp quốc đề-cập đến vấn-đề này. Tôi e mình sẽ không có thì-giờ để có buổi nói chuyện khác về hội-thảo này. Bởi, lúc ấy, tôi phải phụ-trách buổi tĩnh-huấn với anh em ở Galong, Sydney. Hy-vọng là anh em bên ấy, cũng sẽ đăng-tải nội-dung buổi hội-thảo này trên Tạp chí Thánh Tôma vào giữa năm. Thay vào đó, tôi sẽ dựa vào bài viết của Claude Geffre, O.P ở Le Saulchoir, Paris.

         
Khi trước, có cuộc đối-thoại rất ngắn cũng vui vui giữa nhà thừa-sai phương Tây và người Trung-Hoa, như sau:

Nhà thừa sai nói với người Trung Hoa: Ông theo đạo Chúa chứ?
Người Trung-Hoa khi ấy trả lời: Không dám đâu. Gì mà sớm thế, cha!




Thánh Phanxicô Xaviê


Nay cũng đã hơn 500 năm, tính từ ngày sinh của thánh Phanxicô Xaviê, rồi. Mới đây, có bài viết của tác giả X. Leon-Dufour nói về cuộc sống của thánh Phanxicô Xaviê, sj từng cho thấy: thánh Phanxicô Xaviê xem chừng cũng hiện-đại không kém. So với thánh Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê có nhiều điểm cũng tương-đồng, nếu ta nhìn vào lịch-sử Giáo-hội cách tổng-thể, bởi lẽ: cả hai vị, đều đem niềm tin-yêu Đức Kitô đến với thế-giới nhân-trần. Nói khác đi: nơi thế giới Phương Tây, mọi người đều qui về thánh Phaolô; còn với thế-giới phương Đông, thì mọi người lại chú-mục vào thánh Phanxicô Xaviê, Dòng Tên.    

Có thể nói một cách chắc-nịch rằng: thánh Phanxicô Xaviê chưa hẳn là người đầu-tiên đặt chân đến Châu Á. Người của phái Nestorius khi trước đã có mặt ở đó, từ thế-kỷ thứ 6. Các thày dòng Phanxicô cũng từng có mặt ở đó, trước cả thánh Phanxicô Xaviê không lâu, cả vào thời người Bồ Đào Nha bảo-hộ phần lớn châu-lục này. Thánh Phanxicô Xaviê là người sắc-tộc Basque, từng hoạt-động cho chính-quyền bảo-hộ thuộc nước này.

Thánh-nhân đến đây, mang theo kế-hoạch thừa-sai/mục-vụ, và ngay lúc ấy, ngài cũng từng biết cách thích-nghi nền văn-hoá và tập-tục của người địa-phương. Kế-hoạch của ngài, là đến với cả hai, vừa với người thấp cổ bé họng nhưng có nhu-cầu thiết-yếu, vừa với các thể-chế cùng lãnh-tụ của họ, nữa. Ngài làm thế, là cốt tạo tương-lai ngời sáng với mọi người. Ngài đến, cả với người đánh vớt ngọc-trai (tức những người thấp-hèn thuộc giai-cấp thấp, chỉ trên mỗi giai-cấp của người sống ngoài lề xã-hội, thôi. Và, ngài cũng lại đến với các tù-nhân, nữa. Ngài đến với cả hệ-thống sức khoẻ, như: bệnh-viện và các bệnh-xá phung-cùi cũng như trung tâm giáo-dục, ở đây đó. Riêng ở đây, ngài lại chọn đường-lối dạy cho mọi người biết cách nguyện-cầu cùng hiểu giáo-lý Đạo Chúa theo ngôn-ngữ của dân chúng địa phương và đưa vào đó phương-pháp mô-phạm vốn dĩ phù-hợp với nhu-cầu của riêng họ. Ngài nhắm mục-tiêu nhanh-chóng huớng-dẫn đào-tạo hàng giáo-sĩ địa-phương, cho thành-thạo. Về sau, ngài còn đưa vào chuơng-trình giảng-dạy việc phê-bình cung-cách làm chứng-tá cho Chúa qua các giáo-dân ở cấp cao hơn, ngõ hầu các vị này có thể quay ngược trở về với bản gốc, và cả những vị có chân trong hàng giáo-sĩ, nữa. Rồi cứ thế, ngài tiến tới việc đấu-tranh cho sự công-bằng chính-trực, trong khu-vực.

Cũng giống thánh Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê từng thực-hiện nhiều cuộc hành-trình thừa-sai đầy ý-nghĩa. Sau hành-trình ban đầu vào năm 1541 từ Châu Âu đến Goa, là: trung-tâm của người Bồ Đào Nha ở Ấn-Độ, ngài lưu lại đó vỏn vẹn chừng 13 tháng, mà thôi. Sau đó, thánh Phanxicô Xaviê lại cũng xuống tận miền Nam Ấn Độ, như: eo biển Malacca, Mã-Lai và vài nơi. Tiếp đến, thánh-nhân lại đã quay trở về Goa để rồi lưu lại nơi này đến 15 tháng và đào-tạo 17 tân-chức Dòng Tên từ Châu Âu đến, vào thời sau đó. Thánh Phanxicô Xaviê nhận thấy là sự hiện-diện của ngài ở Ấn Độ không còn cần-thiết như trước, ngài bèn lập cuộc hành-trình khác đi về hướng Nhật Bản, để giảng Đạo.

Lúc đầu, người địa-phương tiếp-đón ngài không mấy nồng-hậu, do bởi ngài và đoàn tuỳ-tùng trông quá nghèo-nàn. Nghe biết điều này, thánh Phanxicô Xaviê bèn ăn vận tựa hồ sứ-thần Toà thánh được phái đến Châu Á, và khi ấy, mọi người mới đón tiếp ngài tốt đẹp hơn trước, đồng thời các vị ấy còn tặng ngài một ngôi chùa Phật-giáo để lưu-trú. Tất cả phải mất mươi tuần lễ im hơi lặng tiếng không chuyện-trò gì được, trước khi tạo được phản-ứng đầu khá thành-đạt. Thánh Phanxicô Xaviê sống ở Nhật được 17 tháng, rồi ngài lại ra đi nơi khác tiếp tục công cuộc thừa-sai, không ngừng nghỉ. Trên đường trở về từ Nhật Bản, thánh-nhân gặp cơn bão lớn gần đảo nhỏ kế bên tỉnh Quảng Đông của Hoa lục và từ đó, ngài lại có được ước mơ đặt chân lên Trung quốc. Thánh Y-Nhã Dòng Tên khi ấy gửi cho ngài thư luân-lưu bổ-nhiệm ngài làm “Giám Tỉnh” coi sóc các vùng thuộc Ấn Độ, nhưng ngài vẫn tiến về hướng Trung quốc, mở rộng tầm-kích thưà-sai/mục vụ cho đất nước quá rộng này. Khi đặt chân lên được đảo Sanchan, Trung quốc thánh Phanxicô đã qua đời tại nơi đó. Vào giờ liệm xác, người ta thấy: tay ngài vẫn cầm cây nến chiếu sáng của An-tôn, một người Trung-Hoa trẻ tuổi vẫn tháp-tùng ngài trên mọi nẻo đường thừa-sai đầy cam go…



                                                            --------------                          
                       



                                                                                                                                    (còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch     
       

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Ca Vịnh 17



CA VỊNH 17
Dàn bài :   1-2 : Kêu xin Yavê nhậm lời
                                                                                                                                3-5 : Lời tuyên bố mình vô tội
                                                                                                                                6-9 : cầu xin Thiên Chúa can thiệp vào dịp này
                   10-12 : nố hiện tại : những âm mưu của địch thù
               13-14 : Xin Thiên Chúa đoán xử kẻ thù
                                                                                                                                 15 : Điều nguyện ước và tin chắc nơi người khấn.
Cảnh huống : Đây cũng là kinh nguyện của một người bị bắt bớ đã tới Đền thờ tuyên bố là mình không có những tội vu cáo. Có ít tác giả dựa vào câu 3 và 15 mà nói người khấn ngủ tại Đền thờ để nhờ Thiên Chúa cho điềm cứu giúp và sáng dậy thì được đáp lại (Mowinckel, H.Schmidt).
Thời : không thể xác định được.
Ca vịnh có những khúc rất khó xác định về văn bản, cách riêng các câu 4-5 11 14. Các bản dịch đều là phỏng chừng.
Câu 15 : nhiều tác giả đã hiểu “evigilans” như ám chỉ đến sống lại. Nhưng không đủ lý. Người khấn ở đây phải hơn là tỏ bày điều lòng mình ao ước trông cậy được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa như một người đã được Thiên Chúa thương đoái. Việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa đem về một hình tượng cụ thể (như Dst 12,8). Như thế có lẽ tác giả nghĩ đến việc Thiên Chúa hiển hiện như trong Is 6,1tt. Buổi sáng, sau đêm (thời gian vị Thiên Chúa thử thách), người bị vu cáo bắt bớ ước ao chớ gì mình được gặp gỡ Yavê như trong một cuộc Yavê hiển hiện.

Thursday 25 September 2014

Lm Nguyễn Thế Thuấn Ca vịnh 6



CA VỊNH 6
Dàn bài :   2-5 : Lời than thở cầu xin
                                                                                                                                   6 : một lý do để xin Thiên Chúa can thiệp chóng.
                                                                                                                                7-8 : sự đau đớn cực độ của người khấn
                     9-10 : thay đổi hẳn thái độ : đã được nhậm lời : một sự chắc chắn.
Kinh của một người phải một trọng bệnh, đã hầu như cửu tử nhất sinh (kề miệng huyệt).
Người và thời buổi : không thể vạch ra được. Nhưng kiểu làm ca vịnh “theo điển cứ” này lộ ra một thời khá muộn.
Một điều khó khăn thôi là sự đột ngột đổi thay tình trạng giữ câu 8 và 9. Hình hư giữa khoảng đó có một hiện tượng gì để tỏ việc Thiên Chúa nhậm lời, ngoảnh mặt lại với người khấn. Nhiều tác giả muốn thấy có tế lễ và sau đó một tư tế nhân danh Yavê cam đoan Thiên Chúa nhậm lời.
Ca vịnh này thuộc những ca vịnh sám hối của Hội thánh, đã xuất hiện thành một sổ từ thế kỷ 6 (với 32 38 51 102 130 143).
Cái thảm kịch là tác giả mong ứng báo trên trần gian. Nơi miệng tín hữu : sự ứng báo kia phải trở nên tính cách quyết định đời đời của đời sống trần gian.

CA VỊNH 7
Dàn bài :   2-3 : người khấn kêu câu Yavê
                                                                                                                                4-6 : thề mình vô tội
                     7-10 : kêu xin Thiên Chúa đoán phạt
               11-12 : lý do trông cậy
                                                                                                                                  13 : Địch thù xông đánh
                   14-17 : Số mạng thù địch
                                                                                                                                 18 : lời hứa tạ ơn.
Cảnh huống : Lời khấn xin của người bị vu cáo. Một kẻ thù địch bắt bớ, hằm hằm theo đuổi. Người khấn chạy tới Đền thờ, tuyên thệ là mình vô tội, kêu cầu đến Thiên Chúa, Đấng xét xử công minh. Coi 1Vua 8,31tt. Nố đó chắc xảy ra nhiều lần. Ca vịnh này có thể làm khuôn khổ cho những kinh nguyện trong các nố đó.
4-6 : Lời thề vô tội : coi Gióp 31 (các Ca vịnh 17,3-4; 26,4-6 cũng thuộc nố tương tợ, nhưng không rõ rệt như ở đây) - Hoàn cảnh chung coi Tlt 17,8-11). Có lẽ kèm theo những cử chỉ ngụ ý như rửa tay, đi quanh bàn thờ (Cv 26,6).
14-17 : Số mạng của địch thù :
- Phải hiểu làm sao về việc kẻ dữ làm hại chính mình nó ? Không chỉ là đạo lý ứng báo mà thôi : có quan niệm khác nữa trong Cựu ươc là : mọi việc dữ sau cùng trở lại làm hại chính kẻ dữ : nhỡn giới tổng quát coi như là duy nhất : các điều khác nhau : việc và hiệu quả (lành dữ), quan niệm đó được siết chặt với quan niệm “Thiên Chúa nguyên nhân cho hết mọi sự”.
Trong Hội thánh, tín hữu vẫn có phận sự chiến đấu cho sự thật, cho sự công bằng. Phải can đảm xông pha để làm sao cho sự thật thắng trước những mưu mô của địch thù của Thiên Chúa.

CA VỊNH 9-10
Dàn bài :   2-5 : Người khấn tạ ơn vì Thiên Chúa đã tiếp cứu
                                                                                                                                6-9 : Yavê là Đấng đoán xử muôn dân.
                   10-11 : Yavê là thành lũy cho người bị áp bức
                   12-15 : cao rao sự Thiên Chúa cứu giúp
                   16-17 : Các dân tộc đều phải ra tòa án của Thiên Chúa
                   18-21 : Khấn xin Thiên Chúa đoán xử các dân vô đạo
            10,1-11 : Người vô đạo mà thành đạt mọi sự : sự cám dỗ.
                   12-15 : Cầu xin Yavê bênh đỡ người nghèo khó
                   16-18 : Yavê-Vua là Đấng phán xét muôn dân và cứu thoát người nghèo khó.
Trong Ca vịnh có 3 chủ đề lặp đi lặp lại :
      1/ việc cứu thoát người khốn quẫn nghèo hèn khỏi địch thù
      2/ Quyền phán xét và làm vua của Yavê trên mọi dân
      3/ người ác tự đắc tự mãn là sự cám dỗ cho đức tin người hèn yếu
Ca vịnh thuộc loại phức tạp : có những điều thuộc Ca tạ ơn (9,2-5 14 15) - thuộc loại ca tụng (9,6-13 16-17) - thuộc loại khẩn xin ước mong (9,18-21) - thuộc loại ai ca (10,1-11...) - loại giáo huấn.
Một ca vịnh hay hai ? Một : theo vần Alpha-Beta...
Nhưng loại chi phối cả Ca vịnh là “phù diễn lời tạ ơn nên một Giáo huấn”, như thế phải đặt vào loại “Ca vịnh huấn ca”. Huấn ca đi từ một lời tạ ơn cá nhân : bởi đó một bên đụng chạm với những lời ca tụng chúc vinh, và đàng khác đưa đến những lời than vãn, kêu xin. Trong Ca vịnh, hai thứ kinh nghiệm được bày tỏ ra : những sự cứu thoát lạ lùng, và sự Thiên Chúa như chậm trễ cứu giúp. Phải hiểu sự gai chướng trước việc Thiên Chúa chậm trễ : đó không phải ngã lòng; nhưng vừa là kêu cứu cách tha thiết và đàng khác hết lòng trông cậy (10,12-15). Trong 10,16-18 : sự lo toan của người bị cám dỗ kia được kéo vào những lời ca tụng chúc vinh. Không phải như thể che giấu cái nan giải của vấn đề : nhưng chính đó mới có lời giải cuối cùng của điều bí nhiệm : tất cả giải quyết được tom góp trong lòng tin “Yavê là vua”. Cái lòng tin tưởng đã vang dội trong phụng vụ của Đền thờ: Yavê là Đấng đoán xử và là vua muôn dân, điều đó đối với người có lòng tin là cái gì cuối cùng, cái vượt quá mọi mãnh lực quyền phép. Như thế vấn đề sách Gióp đã được nêu ra, và đã được giải thích cách tương tợ. Điều này chứng tỏ trong Cựu ước cũng đã thấy có đặt liên lạc giữa số mạng mỗi người và những sự kiện cuối cùng cánh chung : chính các sự kiện này chống đỡ, củng cố đức tin.