CẢI
CÁCH RUỘNG ĐẤT
Lm
Vĩnh Sang DCCT
Mấy hôm
nay trên các trang báo, các đài truyền hình, các websites, các blog và facebook
nổ tung một lượng thông tin rất lớn về cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất ( 1946
– 1955 ) tại Hà Nội, cơn bão thông tin như xới lên vết đau mà lâu lắm rồi, 60
năm tưởng chìm vào quên lãng, chí ít là cũng tạm ngủ yên vì không mấy ai nhắc
đến nữa. Bao nhiêu cảm xúc được phơi bày cho thấy, quả thật là một cuộc “cách
mạng long trời lở đất” trong quá khứ còn hằn dấu cho đến hôm nay. Phản ứng mạnh
và sâu rộng như thế này không biết đến bao giờ biến cố tang tóc này mới lắng
xuống và trôi vào dĩ vãng ?
Cuộc cải
cách ruộng đất những năm ấy ghi một dấu ấn sâu đậm vào cuộc sống gia đình tôi,
cách riêng cha tôi, mà cho đến giờ chết ông vẫn còn chưa nguôi ngoai nỗi đau
buồn. Không riêng gì nhà tôi, hầu hết các gia đình ở miền Bắc đa phần đều hứng
chịu, người cách này kẻ cách khác, kẻ cả những gia đình đã vào Nam trước nhưng
vẫn có liên hệ với họ hàng thân thuộc ở lại miền Bắc.
Năm 1945, khi Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, cha tôi, đang còn là
một thanh niên, vội vàng bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con ở miền quê nghèo
nàn của mình, trốn lên thành thị để tránh bị ruồng bắt. Cha tôi chẳng làm gì để
phải mắc “nợ máu” với nhân dân, nhưng ông bị tìm bắt chỉ vì đã là chánh hội Nam
Thanh ( hội Thanh Niên Công Giáo trong Giáo Xứ thời bấy giờ ), bị xem là lực
lượng đối kháng với họ. Mẹ tôi kể “Bố vừa thoát ra khỏi nhà ban chiều, lúc sập
tối, thì nửa đêm họ ập vào nhà lục soát tra khảo mẹ”.
Sau cái
đêm kinh hoàng ấy, mẹ tôi đã tìm cách đưa đứa con trai đầu lòng trốn lên thành
Nam theo bố, ông nội tôi thì giữ bằng được đứa con trai thứ hai ở lại quê để
“hương khói tổ tiên”. Mẹ tôi sẽ tìm cách trở về làng "đánh tháo" đứa
con này của mình, cha tôi sẽ đạo diễn "chiến dịch" ly kỳ ấy, vì không
chịu được cảnh “cứ xới cơm lên là mẹ lại khóc vì mất con”.
Cuộc
"bắt cóc" đứa con trai được thực hiện đúng ngày lễ Đức Mẹ lên Trời,
bổn mạng của Giáo Họ, mọi người vui vẻ tham gia cuộc rước kiệu, ông nội tôi mải
mê đọc kinh đi theo kiệu, anh tôi thoát ra sau mật lệnh của thím út, hai mẹ con
gặp nhau ở bãi tha ma rồi cắm đầu chạy. Cuộc đào thoát diễn ra ban đêm, hai mẹ
con băng qua các cánh đồng chứ không dám chạy trên mặt lộ sợ bị bắt lại. Khi
đến được nơi an toàn là bến đò, hai mẹ con xuống núp ở một canô chở chiếu đi
buôn. Lúc này mẹ tôi mới phát hiện ra túi bánh kẹo cha tôi mua, dặn trao cho
thím út mang về làm quà cho mọi người, vẫn còn đeo nguyên bên người… Sau này,
năm 1975, các anh tôi phải đi tù cải tạo xa, nhiều tháng ngày không tin tức,
một lần nữa mẹ tôi lại nhiều phen băng rừng tìm con, bà lồng lộn lên như con
thú bị mất con, quyết tâm dành lại cho bằng được.
Di cư vào
miền Nam rồi, ngày được tin ông nội tôi mất, cả nhà bao trùm một bầu khí thê
lương. Bố tôi ngồi rầu rĩ không nói gì, mấy ngày trôi qua trong im lặng đáng
sợ, chỉ có tiếng thở dài của bố và của mẹ, thỉnh thoảng các chú tôi đến nhà,
mấy anh em lại ngồi vò đầu thở dài với nhau. Mấy ngày sau bố tôi tổ chức phát
tang rồi đi dâng lễ ở Nhà Thờ, tối tối đọc kinh trong nỗi buồn hiu hắt. Sau này
nhờ Ủy Hội Quốc Tế, các danh thiếp liên lạc Bắc – Nam cho chúng tôi biết rõ hơn
về cái chết của ông. Sau 30 tháng 4, chính cô tôi vào Nam kể lại nhiều chi tiết
đau xót hơn nữa.
Ông tôi, một nông dân nghèo, sở hửu 2 công ruộng, bị xếp loại địa chủ
lôi ra đầu tố. Cả cuộc đời chân lấm tay bùn, cày cấy trên chính mảnh ruộng của
mình còn không đủ ăn lấy ruộng đâu ra mà cho tá điền làm thuê ? Tính tình ông
nhân hậu, cho người hàng xóm mượn vài yến thóc, thế cũng đủ là nguyên nhân để
bị kết tội địa chủ. Người ta vin vào việc ông có thóc cho vay, chính người hàng
xóm từng được vay thóc đã quay ngược lại vu cáo ông tôi, rồi mấy người trong
xóm theo phong trào, nhảy dựng lên mà kể tội, bảo “lắm của nhiều bạc nên mới phè
phỡn sáng chiều chỉ mỗi một việc đến nhà thờ đọc kinh” !?!
Tòa Án
Nhân Dân quyết định xử tử hình ông tôi. Đêm trước ngày thi hành án, cô tôi nắm
một nắm cơm bò vào sân đình nơi nhốt ông tôi để ông ăn đỡ đói, khi bò vào đến
nơi trói ông tôi, sờ vào người thì ông tôi đã mất rồi, người cứng đờ không còn
biết gì nữa, cô tôi sợ quá không dám phản ứng gì, lẳng lặng bò ra. Hôm sau họ
đem xác ông ra vùi ngoài bãi tha ma, đến con ruột cũng không dám thắp nén hương
cho bố, mãi sau này mới đem cải táng về chung trong lăng mộ của gia tộc.
Cũng sau năm 75, người hàng xóm từng cầm đầu đám đông đứng lên đấu tố ông
tôi tìm vào Nam, ông ta tìm đến thăm gia đình tôi và ngỏ lời xin lỗi, cha tôi
lẳng lặng không một lời trách cứ. Sau bữa cơm mời khách, cha tôi bảo mẹ tôi cho
họ ít tiền xe.
Khách về
rồi, cha mẹ tôi bùng nổ xung đột, khi có khách bà nhịn không nói, khách đi rồi,
bà bảo sao lại có thể dọn cơm đãi đằng kẻ đã vô ơn bất nghĩa, đã góp phần làm
hại cha của mình cơ chứ. Cha tôi vẫn không một lời, gương mặt ông hằn lên nỗi
đau khổ. Sau này khi ông đau nặng, những ngày tôi kề cận bên ông, nghe ông tâm
sự, tôi mới hiểu ông bị dằn vặt về tội bất hiếu, đã vắng mặt trong những ngày
khốn khổ của cha mình.
Không ai
có thể đo được sự tàn phá của một chính sách tàn ác và sai lầm, nỗi đau len lỏi
vào tận từng tâm hồn con người nạn nhân, di chứng đến nhiều thế hệ. Cái cách
thi hành chính sách "cải cách ruộng đất" làm sụp đổ cả một hệ thống
đạo đức xã hội, phá tan tình làng nghĩa xóm, gia đình anh em họ hàng ruột thị,
nó cắt nghĩa tại sao tội ác về sau này sẽ hoành hành hung tợn, con người sẽ
chém giết nhau không gớm tay.
Người tin
vào Chúa đứng trước thách đố vô cùng to lớn, nếu thật sự vững tin vào Chúa,
phải chứng minh được rằng Tin Mừng có sức hàn gắn, chữa lành và thay đổi mọi sự.
Mỗi người tùy theo lương tâm mách bảo mà dấn thân cho sự sống của dân tộc mình,
dấn thân để không chỉ mang lại sự sống, nhưng còn là Sự Sống dồi dào bất diệt (
x. Ga 10, 10 ).
Lm. VĨNH SANG, DCCT,
13.9.2014
No comments:
Post a Comment