Saturday, 13 September 2014

Lm Nguyễn Thế Thuấn Tông Đồ Công Vụ: CHƯƠNG 14



CHƯƠNG 14
LY KHAI GIỮA HỘI THÁNH
VÀ ĐẠO DOTHÁI
------
Trong khoảng thời gian năm 49 (Công đồng Yêrusalem) và 64 (Nêrô cấm đạo), việc truyền giáo bành trướng mạnh. Vấn đề Lề luật nói được đã thanh toán. Thời gian này chúng ta tiếp xúc trực tiếp được với những vấn đề bên trong Hội thánh nhờ các thư của thánh Phaolô, trái lại với 20 năm (từ năm 30 đến 49) đầu (ta chỉ biết gián tiếp do những văn kiện thời sau thuật lại).
1. Cuộc tranh luận Antiokia đã kết thúc bằng một “modus vivendi” : Modus vivendi đó là chính sắc chỉ Công đồng Yêrusalem (Cv15:29). Như đã thấy vấn đề xung đột là vấn đề liên can đến Dothái – còn vấn đề công đồng là vấn đề liên can đến tín hữu dân ngoại. Sau khi đã giải quyết : tín hữu dân ngoại được tự do đổi luật Môsê, thì liền có vấn đề : tín hữu Dothái trong những cộng đoàn hỗn hợp có phép bỏ Lề luật và cùng chung sống, đồng bàn cùng tín hữu dân ngoại. Người ta đã thực hành trước khi giải quyết theo nguyên tắc : Antiokia đã sống như vậy từ đầu. Cả Phêrô nữa khi viếng cộng đoàn cũng thế. Nhưng có những người Yacôbê phái đến không nhận. Phêrô, Barnaba, tín hữu Dothái dụ dựa nhưng đã ngả về phía họ. Phaolô đã kháng cự dựa trên chính cốt tủy của Tân ước : ơn cứu rỗi dựa trên nền tảng độc nhất “Tin vào Chúa Kitô chết và sống lại”.
Nhưng thực sự tranh luận kết thúc làm sao, Ga2 không nói. Cv cũng không. Đây là ức thuyết cái nhiên : sắc chỉ Công đồng đã ra để dàn xếp việc này : truyền cho tín hữu dân ngoại giữ những khoản Lề luật (Lv17:8-14 8:6tt) đã ra cho khách ngụ cư giữa Dothái. Nhờ sự nhún nhượng này của anh em dân ngoại, anh em Dothái có thể sống chung với họ dễ dàng, và hạp với Lề luật, làm cho người Dothái không thể bắt bẻ được tín hữu. Nhưng cách xử thế đó giả thiết tín hữu Dothái vẫn còn phải phục tùng Lề luật (lập trường của Yêrusalem dưới sự lĩnh đạo của Yacôbê) trừ ra những điều ngăn trở việc đồng bàn với tín hữu dân ngoại. Phaolô hình như không biết đến sắc chỉ đó. Nhưng sắc chỉ đó dần dần đã được áp dụng trong cả Hội thánh, nhưng với một ý nghĩa mới : Kh2:14 20 24 nhấn vào các khoản đó như một cách tuyên tín chống lại đạo của dân ngoại và những bè ngộ đạo (lý do đó đã dội lại trong 1Cor10:5tt). Rồi đến thế kỷ 2, sắc chỉ lại thay đổi ý nghĩa một lần nữa : đó là văn bản tây phương “một toát yếu luân lý” cấm 3 trọng tội (thờ quấy, dâm dục, giết người – và “khuôn vàng thước ngọc” làm mẫu cho cách xử thế). Nhưng ngay thế hệ thứ 2 (lối 70 trở đi) sắc chỉ nói được là lỗi thời nếu xét về mục đích tiên khởi (chung chung tín hữu Dothái không còn giữ luật Môsê nữa). Phong trào đã thấy xuất hiện vào lối 57 rồi (Cv21:20tt).
Vấn đề được dàn xếp ở Syri do sắc chỉ mặc một hình thức khác trong các giáo hội của Phaolô : sự căng thẳng giữa kẻ “mạnh” và người “yếu” (1Cor8-20 Rm14:1-15:13). Người yếu: một phần tín hữu Dothái không dám mạnh dạn bỏ ngoài những khoản Lề luật Môsê : cách riêng về việc ăn uống. Rm14:1tt : các tín hữu đó muốn sống như những Dothái đạo đức theo mẫu Đn1:8-16. Nhưng vấn đề đó chẳng bao lâu cũng được lướt qua, và Cv21:20tt ám chỉ đến phong trào tín hữu Dothái bỏ cả cắt bì con cái.
2. Vấn đề Dothái phiệt. Phong trào tín hữu Dothái bãi bỏ cả Luật Môsê gây xúc động lớn trong Giáo hội Falệtin (Cv21:20), nên có lẽ đó là lý do làm cho xuất hiện phong trào Dothái phiệt. Trước công đồng, Dothái phiệt muốn tránh đoạn giao với các Hội đường Dothái kiều, bây giờ họ muốn tránh cho tín hữu Dothái chối bỏ Lề luật. Vấn đề được biết là nhờ Ga : có những giảng viên nại vào các Tông đồ tiên khởi mà chống lại Phaolô, và những khuyên dụ tín hữu Galát (bắt buộc?) chịu cắt bì (Ga5:3 12 6:12 15) : nhờ đó mà nhận Lề luật (Ga4:21) chung chứ không phải mọi khoản (Ga5:3).
Môn phái Tubingen của ChBaur : một phong trào lớn lao hoạt động ở Corinthô và Rôma. Theo họ thì Phêrô sau vụ xung đột Antiokia, các tông đồ đều ngả theo. Chứng chỉ : các thư Corinthô nói đến những bè đảng, những kẻ chống đối Phaolô, Rm16:17-20 Ph3:2t có những cảnh cáo nghiêm nhặt.
Nhưng đó là dựa trên tưởng tượng. Chỉ có Ga mới nói đến việc đòi tín hữu cắt bì. Sau biến cố Galát, tuy rằng thỉnh thoảng đó đây đạo Dothái thượng luật ló hiện (có ít chứng chỉ về Tiểu á và Syri vào thế kỷ 2), nhưng nói chung thì đó là một phong trào không có triển vọng. Giải quyết của Ga đã nên nguyên tắc hướng đạo Hội thánh.
3. Một vài lời tương lai của Giáo hội Falệtin. Sau cuộc cấm cách do Agripa I (năm 44), Giáo hội được yên tạm vào thời các trấn thủ (44:52). Nhưng từ năm 50 trở đi, phong trào nhiệt thành hoạt động ráo riết. Họ thù ghét và sẵn sàng thủ tiêu bất cứ người Dothái nào có giao dịch với Hilạp và Rôma, và không “nhiệt thành” với Lề luật. Muốn sống, Giáo hội cũng hết sức tỏ ra mình sùng thượng Lề luật, nhưng vô hiệu, đầu cuộc khởi nghĩa chống Rôma, tín hữu bị loại như “Dothái gian”; họ phải tản cư qua Pella, và sau đó trôi dạt, hoặc sáp nhập vào Hội thánh dân ngoại, hoặc đã cứ đóng kín trong lập trường đạo lý sơ thời mà tach hẳn khỏi Hội thánh đại đồng, và thành lạc đạo như nhóm Ebiônit.
(vấn đề Judéo-christianisme : Daniélou
vấn đề :
Ebionit : Catholicisme III, 1231/3 tiếng EBIONITES (GBardy).



              : JDaniélou, Théologie du Judéochristianisme, 68-76).

No comments: