CHƯƠNG 13
NHÓM
YACÔBÊ
VÀ VẤN ĐỀ
ĐẠO LÝ CỨU RỖI BỞI TIN
--------
Ga2:11-12. Xung đột Antiokia
Coi : Féret
(H.M.) op Pièrre et Paul à Antioche et à Jérusalem
RSR 45
(1957) 42-60 224-239 Pièrre et Paul à Antioche et à Jérusalem (par J.Dupont)
(Phê bình lập trường của H.M. Féret và phủ nhận).
LCerfaux,
Le Chrétien dans la théologie paulinienne (LED 33) p.347-350 (l’affaire
d’Antioche).
Các sách
chú giải thư Galát (Lagrange, P.Bonnard, Schlier, Viard).
Thời buổi
Zahn,
Munck, Féret (LCerfaux, La communauté apostolique, 94-95 (1953) : trước Công
đồng Yêrusalem.
Lý :
a)
Ga2 không nói rõ biến cố xảy ra hồi nào.
Ga2:11 có
“hóte dé” (Féret dịch : Et quand) : tiếng có thể chỉ liên tục tư tưởng cũng như
tiếp tục về thời gian.
Ga2:1-10
cũng ôm chằm nhiều việc đã xảy ra vào những thời khác nhau. Vậy thì sự liên tục
về thời gian đã bỏ ngoài rồi.
b)
Công vụ.
Phải xét
chung những lần Phaolô có mặt tại Antiokia :
- trước
hành trình truyền giáo I : không đương nhiên chút nào, chưa có vấn đề.
- sau công
đồng Yêrusalem : quá ngắn cho một xung đột đòi phải có một thời gian dọn ngấm
ngầm.
- vậy thì
chỉ có lúc trở về sau hành trình truyền giáo là thuận tiện.
Những
tương chiếu giữa trình thuật Ga2:11-21 với trình thuật Cv15.
Cv14:28 :
nhiều ngày lưu lại ở Antiokia. Cv15:1-2 những người ở Yêrusalem đến và tranh
luận gay gắt.
Những ý
tưởng trùng nhau giữa lời lẽ Phaolô trong Ga2:14-16 với điều Phêrô nói ở
Yêrusalem (Cv15:10-11). Phêrô đã được Phaolô thuyết phục cho.
Sau
Công đồng Yêrusalem
Nhưng các
nhà chú giải chung chung không thể nhận là Công đồng nói trong Ga2:1-10 (đồng
nhất với Cv15) lại ở sau cuộc xung đột nói trong Ga2:11tt. Một điều quá rõ :
cuộc xung đột chỉ có trong Ga – Cv không có một tiếng. Kiểu nói trong Ga hướng
hẳn về một thời sau Công đồng. Bởi đó là một vấn đề chú giải Ga2:11t.
Chú giải
11/ Đoạn
bắt đầu bằng tiếng quan trọng “hóte dé” (Vg. Cum autem) (coi RSR45,51-53) :
ngoài chỗ tranh luận này, thì Phaolô đã dùng trong Ga1:15 2:12 (câu 14 có khác
nhưng cũng một kiểu, Tt3:4) : các chỗ đó tiếng có một nghĩa rất tự nhiên : đặt
biến cố xảy ra muốn nói đến ở vào một thời nào sau điều đã nói trước.
Vậy thì
cái nhiên hơn cả là phải nhận điều nói trong Ga2:11tt đã xảy ra sau biến cố nói
trong Ga2:1-10.
Kêfa chính là
Phêrô (Clémentê Alex. muốn coi đó là một trong số 72 môn đồ chứ không phải
Phêrô : một sự tránh né vấn đề).
Đến
Antiokia làm gì? Chúng ta không biết được. Nhưng chứng tỏ giữa Hội thánh thời
xưa việc giao dịch không hiếm.
Tôi đã cự
lại
: nhấn đến phản kháng, chứ không phải là thêm cái gì mới : phản kháng để duy trì
điều đã thành thông lệ tại Antiokia: tức là sự sống chung, đồng bàn giữa hai
hạng tín hữu.
Ngay trước
mặt
: sự phản kháng đã làm công khai, có lẽ trong một buổi hội họp của Giáo hội sở
tại.
Xưa có
nhiều tác giả coi như một tấn kịch hai vị bày ra để dạy một bài học (Origênê,
Hiêronymô, Yoan Kim khẩu, Thêođorêtô); Augustinô đã cự lại làm cho Hiêronymô
phải đổi ý.
Vì ông làm
trái
: tiếng Hilạp dùng đây, Schlier nói không phải là “reprehensibilis,
reprehendus, reprehensus, accusatus” – nhưng cũng không hẳn là “condemnatus” –
nghĩa đây là “có lỗi” ngay bởi cách cư xử của mình, chứ không cần phải ai cảnh
cáo nữa.
12/ Tả
trường hợp : Phêrô từ khi xuống Antiokia đã điềm nhiên sống chung với tín hữu
dân ngoại (động từ : impf. thói quen hay lặp lại nhiều lần). Không rõ hẳn là
bữa ăn đây là việc ăn uống thường nhật, người ta đã mời Phêrô dự, hay là “bữa
tối của Chúa”.
Những
người thân cận của Yacôbê. Tiếng nói hình như các người này đã được
Yacôbê phái đi. Giáo hội Yêrusalem đã lâm bĩ : Rôma lấy lại quyền hành đã trao
cho Agrippa I. Dân chúng cảm thấy như bị chinh phục lần thứ hai. Dân chúng sôi
nổi. Tín hữu cũng bắt buộc phải tỏ mình là dothái chính cống, và phong trào
muốn lan đến cả Dothái kiều. Các người này tất nhiên không có quyền gì, nhưng
với họ là cả uy tín Giáo hội Yêrusalem. Những người này không đả kích Tin mừng
của Phaolô. Họ chủ trương : Dothái phải giữ luật Môsê, Chúa Kitô không phải bỏ.
Ở Yêrusalem ai cũng nắm giữ, tại sao Dothái ở Antiokia lại không? Lý luận đã
thuyết phục được Phêrô và các tín hữu Dothái địa hạt. Phêrô đã dần dần rút lui.
Và lý do Phaolô nói rõ là sợ giới cắt bì : tức là những người tự Yêrusalem
xuống kia. Như thế không phải là Phêrô tuân lịnh của họ, cũng không phải là vì
nhận rõ rằng Lề luật cần thiết cho ơn cứu rỗi (chẳng vậy thì Phaolô làm sao nói
được câu 16).
Đây lại
xuất hiện vấn đề thái độ đối với Lề luật : có ba thái độ :
i) thái độ
tín hữu dân ngoại : họ được cứu rỗi duy chỉ nhờ lòng tin.
ii) thái
độ tín hữu Yêrusalem : tín hữu, dẫu có thi hành các việc Lề luật dạy, cũng chỉ trông
vào lòng tin để được nên công chính và được cứu rỗi. Đó là thái độ nói trong
c.16.
iii) thái
độ của những tín hữu đi truyền giáo (trung gian giữa đạo Dothái và dân ngoại) :
những người Dothái này để có thể truyền giáo và chinh phục dân ngoại thì đã sống
lăn lộn với người ngoại. Chính Kêfa cũng đã sống theo kiểu đó ở giữa dân ngoại,
ngài đã bỏ một bên những luật lệ phong tục Dothái, không phải là xu thời, hay
chỉ gọi là thực tiễn thôi : nếu tin rằng ơn cứu rỗi là do quyền năng Thiên Chúa
thi hành trong Chúa Kitô, thì Lề luật thành vô ích và dư thừa.
13/ Kiểu
cư xử của Phêrô hầu như gây một cuộc li khai lớn, và thực tế đã có một Giáo hội
Dothái. Nên để ý : Các tiếng Phaolô dùng để chỉ các hạng tín hữu : dân ngoại,
giới cắt bì, Dothái. Toàn là những kiểu gọi tín hữu trước khi tin đạo : chính
do lai tự nhóm người nào trước kia đó đã gây những vấn đề lớn cho Hội thánh (cơ
sở xã hội cần phải được chú trọng trong sự ứng đáp của lòng tin).
Úp mở : “giả
hình” nhưng không phải là để lừa dối người ta mà là lộ ra một lập trường bất
nhất, và đi đến nguy hại là dối mình một cách thành thực.
14/ Việc
chuyển hướng trong cộng đoàn làm từ từ. Kiểu nói cho thấy là Phaolô sau một
thời gian mới nhận định được tình hình.
Không
thẳng thắn bước theo sự thật... Hilạp có một tiếng độc nhất trong Tân
ước (cổ điển và văn chương ngoài Kinh thánh cũng không dùng) : orthopodein : có
thể có nghĩa “ở trên đường thẳng, tiến thẳng”; nhưng cũng có thể đồng nghĩa
giữa : ouk orthopodeĩn với “khôleúein” (què chân, đi khập khiễng).
Các tác
giả Công giáo tất nhiêu liền nghĩ đến vấn đề vô ngộ (không chỉ nơi Phêrô mà
thôi, mà hết các tông đồ) thì nói như Tertullianô : Con Versationis fuit
vitium, non praedica-tionis.
Nên để ý
chứng chỉ của Tert. này : thời đó tín điều vô ngộ của Giáo hoàng chưa minh
bạch, mà các tác giả đã dè dặt như thế : một hướng dẫn có giá trị cho chú giải
câu này.
Theo sự
thật của Tin mừng. Dù sao cũng liên can đến sự thật Tin mừng :
Vậy sự đánh lảng, tách mình riêng của Phêrô, và tín hữu Dothái phải hiểu là đi
với một việc công khai cộng đoàn : dễ hiểu hơn cả là trong “bữa tối của Chúa”
(1Cor 11:20tt). Sự tách biệt trong hoàn cảnh này sẽ là đề cao sự phân biệt
Dothái, và dân ngoại, và giá trị của những luật lệ nghi tiết Dothái; hơn nữa,
một Hội thánh bị đe dọa đang lúc phải được hiển tỏ như Mình Chúa Kitô trong
“bữa tối của Chúa”; rồi đi đến việc từ bỏ sự kiện căn bản Tân ước, người ta
không sống bởi việc làm chiếu theo Lề luật mà là nhờ sự hi sinh của Chúa Yêsu.
Như thế là đả phá trật tự ân sủng, duy trì trật tự “việc làm” mà nguyên lý là
Lề luật.
Đứng trước
mối đe dọa đó, Phaolô đã phản kháng.
14b-21 Những lời
của Phaolô có một trình tự : cật vấn đích danh Phêrô (14b), rồi chuyển qua
“chúng ta” (15-17), kết thúc vào “tôi’ (18-21).
Có gì
tương tợ như Rm7 : anh em (4a) chúng ta (4b-6), tôi (7-25). 14b-21 liên tục,
Ga3:1 mới thấy chuyển qua một đoạn khác, và quay sang vấn đề trực tiếp của Giáo
hội Galát. Chắc được rằng tại Antiokia, Phaolô không nói từng tiếng như thế :
đoạn này có tính cách toát yếu đạo lý, nói được là Tin mừng Phaolô rao giảng là
thế đó. Và khi cho viết những lời này, Phaolô không chỉ nghĩ đến thái độ Phêrô,
mà còn có trước mắt vấn đề Galát : họ tưởng chỉ chìu theo ít khoản phụ tùng của
Dothái phiệt; nhưng họ phải biết hậu quả sẽ xa lắm. Trước khuynh hướng chia rẽ
xảy ra, cần thiết phải đề cập đến những nguyên tắc căn bản.
14b/ Trước
tiên phải nêu ra trước mắt Phêrô thái độ bất nhất của ông : đứng về khía cạnh
biệt phái khắc khổ như Phaolô thời còn là biệt phái, Phêrô không hề biết đến sự
tinh vi của kiểu sống biệt phái, ông thuộc “am-ha-arès” không biết Lề luật,
biệt phái liệt ông được với người ngoại. Đàng khác từ ngày ông là môn đồ của
Chúa, nhất là từ lúc ông là thừa sai, ông không còn màng nghĩ đến luật lệ
Dothái. Nay bỗng ông đổi cả. Ông có ảnh hưởng lớn trên tín hữu, vì ông là tông
đồ tiên khởi, và làm đầu; tín hữu sẽ không ngại theo hành vi của ông, và như
thế ông bắt người ngoại để theo kiểu Dothái.
15-16/
Muốn lĩnh hội cần phải biết trọng tâm quả quyết là nơi 16b. Chủ từ “chúng ta” ở
đó phải được cắt nghĩa theo tư cách đặc biệt của nó “bẩm sinh là Dothái” trong
c.15. Còn 16a nói ra lý do tại sao chủ từ “chúng tôi” đã đi đến lòng tin, và
16c theo sau để thêm chứng Kinh thánh.
15/ Một
câu lạ tai nơi miệng Phaolô. Phải cắt nghĩa theo những kiểu nói tương tợ (Rm2:14
27 11:21 24 Ga4:8).
Câu này
đối chọi với nhau hai hạng người. Phaolô đặt mình và tín hữu Dothái vào một
hạng khác dân ngoại. Dothái có một thứ “thánh thiện bẩm sinh”. Như thế tiếng
Dothái đây một tước danh dự cho một mẫu người theo một chế độ tôn giáo: thánh
sử trong Giao ước cũ. Và như thế bắt phải nghĩ đến những đặc ân thánh sử nói
trong Rm8:6t.
Bởi đó
Phaolô đặt trước mặt hạng người đặc ân đó “dân ngoại đạo tội lỗi”.
- Không
nói đến bên trong họ thế nào.
- nhưng ám
chỉ đến “tương phản” với những người được có Lề luật. Không có Lề luật tức là
không có thể nhiệt thành vì Lề luật, vì sự công chính phát xuất tự việc làm
theo thánh ý Thiên Chúa đã được ghi chép trong Lề luật.
16/ Song
biết rằng. Đối chiếu với tế nhận những đặc ân thánh sử (c.15). Phaolô bày
tỏ ý thức của một người đã biết giai đoạn mới của thánh sử. Những tín hữu
Dothái giả thiết cũng một quan điểm như Phaolô. Dĩ nhiên không phải mọi người
đều đạt thấu một lòng tin sáng tỏ như Phaolô. Bởi đâu Phaolô “biết” như vậy?
Câu 19-20 sẽ cho biết là vì biết Chúa Kitô chịu đóng đinh và được sống trong
Ngài : biết thế Phaolô nhận ra các đặc ân của Dothái là còn thuộc về “xác thịt”
vô hiệu lực hoàn toàn với ơn “giải án tuyên công” đích thực.
Nhận thức
thứ nhất là “không có giải án tuyên công do tự việc làm”. Phủ nhận xác tín của
dothái : Thiên Chúa không y chuẩn cách giải án tuyên công mà người ta tự tặng
thưởng chính mình (Rm4:2). Người ta có thể nỗ lực làm công việc thánh hóa chính
mình, cho mình đáng được, hay có khi bắt Thiên Chúa phải tuyên bố là mình “công
chính”, trắng án; nhưng Thiên Chúa không đồng ý.
Việc làm
của Lề luật : chẳng những chiếu theo những luật nghi tiết mà là tất
cả Lề luật Thiên Chúa đã cho ghi chép trong Cựu ước. Các việc đó mang tư cách
riêng là được xác định bởi Lề luật. Người Dothái phân biệt các việc đó với việc
tự chọn lấy. Và đây là nhận chân quyết định : người ta không nên công chính,
không có một lời được Thiên Chúa chấp nhận, bởi việc làm, chẳng những việc làm
tự ý, mà cả việc làm chiếu theo Lề luật, nghĩa là do chính Thiên Chúa đòi nữa.
Đó là chỗ đoạn giao với Dothái. Mà chẳng những Dothái mà thôi, mà bất cứ chế độ
tôn giáo nào của loài người.
Nhưng là
bởi lòng tin... (thánh Phaolô có nhiều kiểu nói : ex fidi Rm3:26 3:30
5:1 Ga3:8 11 24 5:4 : ex đó nhấn vào tương phản với “ex operibus legis –
hoặc là “per(dia) fidem” : nhưng dĩ nhiên không phải như một việc nhờ đó mà
được nên công chính – Phaolô cũng dùng trổng “fide” : péstei (Rm3:28). Các kiểu
nói đó chung qui là một. Tiêu cực thì loại hẳn mọi cách làm cho người ta được
khúkhèma do tự mình (Rm4:2). Rồi 16c lặp lại một lần nữa việc phủ nhận hiệu lực
của việc làm theo Lề luật và trưng ra chứng Kinh thánh : Tv143:2 (Rm3:19t cho
thấy ý nghĩa rõ rệt hơn nữa bởi mạch lạc : tình trạng tội lỗi và phổ cập đại
đồng, không ai có thể đương đầu được với án của Thiên Chúa). Phaolô trưng theo
ý, và thêm “tự việc làm Lề luật dạy” : Ngài có lý mà thêm như thế vì người cầu
kinh Tv là người sống dưới Lề luật. Và khi nói “pasa sarx” : Phaolô nhấn vào
người ta nguyên là người : bởi đó chúng ta có quyền rút kết luận cho bất cứ
Luật nào : luật tự nhiên viết trong lòng người ta cũng thế.
Đó là lời
tuyên bố “phá sản” trên mọi kinh doanh tôn giáo, và thu thân tích đức của nhân loại trước Chúa Kitô
và ngoài Chúa Kitô : nếu như quả thực họ muốn được “giải án tuyên công” trước
mặt Thiên Chúa.
17/ Khó
cắt nghĩa. Nhưng nên đặt lại trong hoàn cảnh của việc xung đột Antiokia, và như
thế là rút ra một sự bất nhất trong thái độ của Phêrô và các tín hữu Dothái :
họ quay về lại với Lề luật, tức là họ ngấm ngầm lên án kiểu sống của họ trước
đây trong Kitô giáo; làm thế thì hình như họ nhận rằng họ đã lỗi phạm Lề luật
khi họ đã sống thoát khỏi Lề luật, và như thế là họ đã liệt mình vào hạng tội
lỗi dân ngoại. Như thế thì việc họ làm bởi theo tư cách là thuộc về Chúa Kitô
và phục vụ Chúa Kitô, nên hậu kết lan đến cả Chúa Kitô : Chúa Kitô như thế đã
là người phò tá sự tội (chứ không phải sự công chính).
Câu này
Phaolô đổi kiểu nói : “giải án tuyên công trong Đức Kitô” và nói đó là một việc
tìm kiếm, một sự đeo đuổi sự công chính cánh chung. Chúng ta gặp tiếng “trong
Đức Kitô” để chỉ trạng thái mới của kẻ từ bỏ tìm công chính trong Lề luật. Một
tiếng nhiều nghĩa : nói chung : có một liên lạc mới giữa Chúa Kitô và kẻ tin
vào Ngài.
18/ Ai mới
là người vi phạm Lề luật? Chính là những người như Phêrô, tín hữu Dothái đã
tráo trở đổi thay (đã từ bỏ sự công chính Lề luật, rồi lại tìm lại sự công
chính đó).
Có thể có
hai cách hiểu : tại sao người trở về lại với công chính Lề luật :
a) là vi
phạm : vì nhận biết rằng mình đã làm trái xưa kia khi rũ bỏ Lề luật, và bởi đó
đã vi phạm Lề luật – và bởi chính vì tin mà đã làm thế xưa kia, thì việc “tin”
kia thành một tội (giải thích của Lagrange, Loisy, Oepke, Beyer, Bisping...).
Nhưng theo giải thích đó, Phaolô phải đặt mình thay chỗ những người ngài chỉ
trích. Nhưng không lẽ Phaolô đặt mình vào một nố rõ ràng như thể một nố ngài
phải kháng cự kịch liệt. Đàng khác kiểu nói có tầm xa hơn là một nố “ad
hominem”.
b) vi phạm
vì trong việc coi Lề luật như có giá trị “giải án tuyên công” có giá trị cứu
rỗi, thì tức là thiết lập lại quyền lực của những Luật điều (giả thiết là phải
thi hành mới được cứu rỗi) – những luật điều do đó mới có “vi phạm”, vì không
thể hoàn toàn thi hành được đầy đủ tất cả. Giải thích này giả thiết Phaolô có
nghĩ đến điều đã xảy ra tại Antiokia, nhưng nhắm đến tương lai, nhất là tình
cảnh của các giáo hội Galát hơn. Trở lại Lề luật, là trở lại một chế độ đã cho
phép sự tội biến những người sống dưới quyền của chế độ thành người vi phạm,
nghĩa là người tội lỗi cả lòng chống lại ý của Thiên Chúa bày tỏ ra nơi một
luật điều rõ định.
Vì chưng :
Câu này muốn trả lời cho vấn nạn : Chúa Kitô, người phò tá sự tội. Chúa Kitô
không gây thêm tội, bởi đã kéo chúng ta ra khỏi Lề luật; nhưng trái lại, trở về
Lề luật thực sự mới làm người ta sa quyền sự tội.
19/ Tại
sao Chúa Kitô không phò tá sự tội (c.17) và ta lại vi phạm Lề luật nếu ta trở
về lại với Lề luật (c.18)? Câu trả lời dựa trên : a) dẫn chứng một biến cố đã
xảy ra cho “tôi” (c.19); b) diễn giải cách sống hiện tại của “tôi” trong Chúa
Kitô (c.20).
“Tôi” :
hiểu chung với cả khúc này, cũng như “chúng tôi” trên kia, “tôi” là một kiểu
nói đồng nhất với các “tôi” giả sử trở lại Lề luật. Nếu hiểu thế thì phải nói
“tôi” điển hình cho hết thảy các tín hữu đồng một lòng tin với Phaolô về ơn cứu
chuộc trong Chúa Kitô, và nhất định kháng cự lại việc tái lập Lề luật. Vậy các
câu này không phải là kinh nghiệm thần bí, mà là cơ sở của tín hữu Tân ước.
Câu 19 này
đã được hiểu nhiều cách.
Chết cho
Lề luật
: nghĩa là chặt đứt mọi liên lạc với Lề luật. Có thể so với Rm6:2 10 (chết cho
tội lỗi) 7:4 (bị giết chết cho Lề luật) (Rm6:11 như thây chết đối với tội lỗi).
Đối với một thây chết, mọi lịnh truyền của người sống đều vô hiệu lực.
Bây giờ
tín hữu cũng vậy đối với mọi lịnh truyền của Lề luật.
Vì Lề luật
mà tôi đã chết cho Lề luật. Có thể hiểu :
a) 2 tiếng
Lề luật không đồng một nghĩa. Về Lề luật : tức là vì Luật của Chúa Kitô
: nghĩa là lòng tin vào Chúa Kitô đã làm cho tín hữu tuyệt giao với Luật Môsê.
Vấn nạn : không xác định trong văn bản. Không đi hết ý của Phaolô.
b) Vậy thì
Lề luật trước sau vẫn là Luật Môsê. Vì Lề luật : Lề luật rộng nghĩa tức
là Cựu ước đã tiên báo về Chúa Kitô, “cùng tận của Lề luật”, bởi loan báo như
thế, Lề luật tự mình đã hủy quyền lực của mình, khi Chúa Kitô đến. Ý nghĩa hạp
với tư tưởng Phaolô, nhưng không sát với mạch lạc.
c) Vì
Lề luật mà chết cho Lề luật : hiểu theo Rm6:1tt và 7:4tt. Không phải chính
Lề luật làm tín hữu chết (nghĩa là bởi có kinh nghiệm về tội, mà có kinh nghiệm
về chết); không phải là Lề luật mở mắt cho thấy là nó không có quyền làm cho
tôi nên công chính, và bởi đó dạy tôi đừng phục tùng Lề luật nữa. Theo Rm6-7
thì không phải Lề luật mà là thân xác Chúa Kitô đã làm tín hữu chết (cùng chịu
đóng đinh... Ep2:14tt Co1:20 2:14). Mà chính Lề luật đã làm cho thân xác Chúa
Kitô như thế. Lề luật, nguyên lý chúc dữ; Chúa Kitô đã lĩnh lấy sự chúc dữ Lề
luật đã ra, và đã bị kể như đồ chúc dữ; Bởi Ngài chết như đồ chúc dữ (của Lề
luật) mà Ngài đã nên nguyên lý cứu rỗi cho mọi người, bởi đó mà cũng là nguyên
tắc giải phóng đối với Lề luật (Rm7:4 Rm6:3-11 trong thanh tẩy). Vậy Lề luật
làm ta chết cho Lề luật : không phải trực tiếp, hay theo suy luận tâm lý, nhưng
Lề luật làm ta chết cho Lề luật vì nó đã làm Chúa Kitô chết cho ta.
20/ Phần
thứ 2 của trả lời vấn nạn : đi sâu vào hẳn “hiện sinh” của Giao ước mới : sự
sống trong Chúa Kitô.
Tôi sống : Sống đây
phải tế nhận theo hướng của Phaolô : tức là sự sống cụ thể và đích thân của tín
hữu trước mặt Thiên Chúa. Materialiter : sự sống đó gồm tất cả những khả năng
hay bất khả năng sinh lý, tâm lý, tâm linh; nhưng “formaliter”, cái đặc sắc là
“theo phán đoán của Thiên Chúa”.
Tiếng
“sống” thời ta mặc nhiều sắc thái, nội giới hóa, đượm nhiều tâm lý (sống nảy
nở, sống ý thức, sống nội tâm). Chúng ta có thể đặt vào đó tất cả tâm linh
người hiện đại, cả kinh nghiệm tôn giáo. Nhưng cần phải nhớ là người xưa không
phân tâm tỉ mỉ, và sống hướng ngoại (nơi đối vật) nhiều hơn. Như đã nói “tôi”
đây không nói đến kinh nghiệm riêng của Phaolô. Nhưng đây Phaolô trình bày
“tình trạng” của tín hữu, theo tư cách tín hữu, với những kết luận thực tiễn họ
phải kéo ra : giải thoát khỏi Luật cũ, thay thế công chính do Lề luật bằng công
chính bên trong, công chính của những kẻ ở trong Chúa Kitô. Vậy Phaolô coi đến “sinh
hoạt” nhân loại cụ thể, toàn diện, thực tế (theo lịch sử trần gian) nhưng dưới
con mắt của Thiên Chúa.
Tôi
sống, nhưng không còn là tôi nữa, mà là Đức Kitô trong tôi.
Tôi : chớ
hiểu là một chủ từ suông; cũng đừng hiểu theo triết học hay tâm lý hiện đại
“đối chiếu với tha nhân, tha vật”.
Trong
tín hữu, không còn phải “con người” đó sống nữa! Tại sao?
-
vì con người đó không căn cứ hi vọng của mình, “aukhèma” của mình (điều mà
người ta gọi đó là “có tiếng nói”, có “tên tuổi với núi sông”, và trên hết cái “thể
diện” hay “vinh dự” của mình chiếm được trước mặt Thiên Chúa), nơi chính mình,
hay nơi Lề luật (cuối cùng cũng vẫn là nơi chính mình); nơi con người đó, không
còn cái “tôi” nhân loại đó chưởng trị, và lộ diện trước mặt Thiên Chúa nữa.
-
từ nay, khi Thiên Chúa nhìn đến kẻ tin, thì Người không còn thấy người đó trong
cô quạnh lẻ loi dù là tội lỗi hay công chính theo Lề luật, nhưng như kẻ đã có
“sự sống mới là Chúa Kitô” (Co3:4). Chúa Kitô đã vào “thực hữu” của người đó,
và người đó được “đánh trồng” vào trong thực hữu của Chúa Kitô (Rm8:1 10 6:5)
(sumphutoi : complantati). Được giải án tuyên công tức là người cũ đã bị xử tử,
và bởi đó Lề luật mất quyền trên tử thi đó; và một trật người mới tàng ẩn trong
Chúa Kitô đã được dựng nên trong tín hữu. Từ nay người đó bảo đảm cho mình
trong Chúa Kitô, và Chúa Kitô bảo đảm nơi người đó một “sự sống một sinh hoạt”,
nghĩa là một khả năng sinh sống (hữu tồn) mới trước mặt Thiên Chúa.
Cái “hữu
tồn”, hay hiện sinh mới đó bây giờ sẽ thực hiện, sinh sống thế nào? Trong lòng
tin của Con Thiên Chúa.
Cuộc sống
của tôi lúc này trong thân xác (xác thịt). Đây không phải là “thoát
tục”; phạm trù “thánh tục” (sacré / profane) thuộc giai đoạn chuẩn bị, đào tạo,
còn khi Thiên Chúa can thiệp cuối cùng thì “nồi niêu cũng như chén thánh”
(Za14:20t). Tín hữu không ra khỏi “hiện sinh” trần tục của mình. Cái “tôi” của
tín hữu không thành hồn bướm ra ma, cũng không được phù phép biến hóa thần
thông, khi trở thành tín hữu. Ai đã có sao về xã hội, về sinh lý, về địa vị :
họ vẫn là thế; và 1Cor7:7, thánh Phaolô còn muốn người ta biết lợi dụng cơ hội
đó mà sống. Nhưng họ phải sống một cách mới hẳn :
Tôi sống
nó trong lòng tin (của) Con Thiên Chúa...
Chỉ có
“tin” vào Chúa Kitô mới cho con người đó có cái gì “chắc nịch” chứ không “phù
phiếm”, “rỗng không” trước mặt Thiên Chúa, và là một cái gì có thực trước mắt
chính mình.
Lòng tin
đó là lòng tin (vào, của) Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến... phó nộp.
Đối tượng
của lòng tin này đã rõ là “Kerygma” nền tảng, những Kerygma đã được xác định rõ
rệt bởi tế nhận ra “thần tính” của Đấng Cứu Thế, một điều chúng ta còn thấy hàm
ẩn mà thôi trong những công thức tiên khởi. Tin nói đây là tin vào lòng mến tỏ
ra cho tín hữu chính trong việc cụ thể tế hiến mình “vì tôi”. Tín hữu biết “sự
sống” của mình, cái “tôi” của mình yêu bởi lòng mến của Chúa Kitô. Cái liên lạc
làm cho tín hữu được quyện theo vào mầu nhiệm cứu chuộc, để nên nhất khối với
Con Thiên Chúa và trở về cùng Cha là Agapè của Chúa Kitô : không phải lòng mến
của ta đối với Ngài, mà là của Ngài đối với ta. Như thế đời sống “được thoát Lề
luật và tội lỗi và được nên công chính) được hiểu là ở ngay trong sinh hoạt cụ
thể ở trần gian, nhưng lại đã biết là được Con Thiên Chúa yêu mến trong việc
Ngài tế hiến mình.
21/ là câu
toát yếu và kết thúc.
Ơn của
Thiên Chúa : đây là tất cả công việc cứu chuộc trong Chúa Kitô.
Thủ tiêu : tiếng
dùng cho luật lệ (bãi bỏ một luật nào), “coi như không” làm mất hiệu lực, và
như vậy loại bỏ đi.
Đó là tại
sao phaolô đã kháng cự kịch liệt kiểu xử thế của Phêrô và tín hữu Dothái tại
Antiokia (và tại xứ Galát) : tựu chung là để ơn của Thiên Chúa được nhận biết
và duy trì trong Hội thánh. Phaolô kết luận bằng một lời đanh thép : giả sử như
có (nhưng thực thì không) một sự công chính nhờ Lề luật (lập được nhờ giữ luật)
thì Chúa Kitô đã chết một cách vô lối (không lý lẽ gì cả nữa): thập giá không
cần gì nữa.
No comments:
Post a Comment