CHƯƠNG 15
TRUYỀN GIÁO DÂN NGOẠI
1. Môi trường
a) Công
việc truyền giáo của người Dothái.
Trước khi
Hội thánh bắt đầu đi rao giảng, người Dothái đã đi trước. Xét về ý nghĩa của
việc truyền giáo đó, chúng ta phải nhận có một sự quan phòng của Thiên Chúa.
Hội thánh không thể lan rộng trong một đời người như thế nếu đã không có một
chỗ tựa là những hội đường của Dothái-kiều rải rác hầu hết các nơi (coi DBS
tiếng Diaspora-Dispersion (II,432-445 : JVander-vorst; Catholicisme III,
890-893 Dispersion (PAuvray), Dict. Enceclopédique de la Bible, Diaspora
449-451 (AvdB)).
Văn chương
: có tính cách minh giáo. Nỗ lực chung là đặt nhịp cầu giữa tư tưởng Hilạp và
Kinh thánh. Philô không hẳn là đại diện đích đáng hơn cả. Nhưng những sách như
Khôn ngoan (viết lối -50) được phổ biến xa rộng. Cách riêng phải nhắc đến bản
dịch LXX (coi : Dict.encycl de la Bible : Septante JdF) căn bản cho việc truyền
giáo của Dothái cũng như của Hội thánh.
Ai truyền
giáo? Không có người nào đặc trách được sai đi, nhưng là tùy sáng kiến và lòng nhiệt
thành tu nhân. Hội đường cũng là điểm tựa cho việc truyền giáo (mở cho người
ngoại tham dự, châm chước thâu nạp : tòng giáo đích danh và những kẻ “kính giới
Thiên Chúa”). Việc giảng trong Hội đường cũng nhắm đến chính phục : thâu nạp tư
tưởng Hilạp và cách trình bày (điều mà người ta gọi là diễn từ mạc khải hay
hieros logos, và diatribè, tức là cách biện luận đắc dụng trong các nhóm.
Ngoài việc
tiếp xúc trực tiếp người với người, chúng ta cũng thấy thế giới La-Hi đã có
những người chỉ tiếp xúc bằng văn chương (Hermetica).
b) Thế
giới ngoại giáo.
Chúng ta
nên để ý đến những phong trào tôn giáo.
Thời này
còn đang sống dưới những cải cách của Augustô: chấn hưng tôn giáo Rôma cổ thời.
Nhưng việc tôn thờ Hoàng đế đã khởi sự : trước tiên bằng những tước hiệu (divi
filius, augustus (sebastos)), tại Rôma chưa được áp dụng triệt để, nhưng tại
các vùng phương đông, người ta đã nhân thói cổ truyền của các dân đó mà áp dụng
thực sự rồi.
Nhưng tôn
giáo công khai nhà nước đó không làm thỏa mản lòng đạo dân chúng : họ tìm kiếm
nhiều kiểu để được an tâm trước lo âu : mà thuật, chiêm tinh; triết lý tôn giáo
phổ thông dạy tu thân tích đức, nhất là các triết gia khắc kỷ nói được là những
vị linh hướng đại chúng, họ giảng truyền nơi nhà tư, tụ họp ngoài đàng xá, đàm
đạo với người qua lại; một cách cẩn mật hơn : nhưng đạo bí truyền, lập thành
những hội, và thâu nạp bằng những lễ nghi nhập môn (coi tiếng Mystères trong
DBS); và một tôn giáo không có lễ nghi sùng bái gì cả nhưng cao siêu và thâm
thúy dưới vỏ ngoài triết lý là những thiên luận Hermetica (coi : Corpus
hermeticum, trong Collection. Les Belles Lettres).
Hết các
phong trào tôn giáo đó cố làm thỏa lòng mộ đạo của dân chúng. Nhưng lòng mộ đạo
đó muốn ôm choàng đủ thứ nên khuynh hướng chung là tạp giáo. Tuy cũng phải nhận
có khuynh hướng đi đến đạo độc thần. Và do sự cởi mở đón nhận bởi khao khát mộ
đạo và hướng độc thần đó nên Kitô giáo đã gặp một phần nào cơ hội thuận tiện.
2. Công việc truyền giáo của Hội thánh
Lời giảng
: mẫu Lc trình bày là Cv17:22-31 14:15tt mới phác họa. Cũng phải đối chiếu với
1Th1:9tt Hr6:1t. Kiểu trình bày có nhiều đụng chạm với hieros logos (diễn từ
mạc khải) Hilạp (thấy cách riêng trong Hermetica). Nội dung chính đó là Kerygma
tiên khởi, nhưng chỗ này nhấn vào “sự vô tri” của dân ngoại (agnoia) (hoặc vì
người ta không thể biết Thiên Chúa : 1Cor1-2, cách riêng 2:10-16, tư tưởng đụng
chạm với Gnôsis của Hermetica – hoặc vì bởi tội mà người ta không nhìn nhận ra
được thực tại của Thiên Chúa có chứng chỉ trong thiên nhiên (Rm1:18-20), có
đụng chạm với kiểu truyền giáo Dothái; hoặc là vì ngộ nhận bởi lỗi mình về việc
Thiên Chúa quản trị trời đất (Cv17:23-29), và có đụng chạm với Khắc kỷ, và
luồng Khôn ngoan Dothái). Sự vô tri đó có dính liền với epithumía (đam mê)
(Rm1:24-27 Ep4:17-19 1P1:14) : bởi đó là một tình trạng tội lỗi. Bởi đó nên có
việc giảng ơn huệ Thiên Chúa và kêu gọi trở lại. Phaolô còn nói cách khác :
Ngài chỉ biết đến Chúa chịu đóng đinh : nghĩa là trình bày đường cứu rỗi của
Thiên Chúa như giải thoát khỏi tội do bởi ơn của Thiên Chúa chứ không căn cứ
vào khôn ngoan (triết lý) hay sự hiểu biết và mãnh lực ý chí của con người.
Đặc điểm
của Kerygma truyền giáo là : trình diện mình như sự thật tuyệt đối (tuyệt đối
kháng cự tạp giáo) nhưng lại có tính cách đại đồng. Đạo Dothái muốn chinh phục
từng người. Kitô giáo chẳng những xác tín cả nhân loại có thể được cứu thoát
nhờ Tin mừng (Cv4:12), nhưng còn mong ước “toàn thể dân ngoại” nhập đạo, cá
nhân cùng đoàn thể nói chung, cả Israel cũng thế (Rm11:25tt). Một đời người
sau, hi vọng đó vẫn chưa thực hiện, lại gặp chống đối nhiều (Mt22:14 Yn10:3
14tt 17:15tt Kh13:7t 17:13). Nhưng hi vọng kia vẫn còn nguyên (Mt5:13t 28:19
Yn1:9tt 8:13 Kh11:10). Khải huyền chiêm ngắm một số đông không sao đếm được
đứng trước Ngai Thiên Chúa (Kh7:9 11:12 14:5).
3. Cách chinh phục
Sức mạnh
thúc đẩy đã sẵn ngay trong nội dung của Tin mừng. Ngoài Phaolô với xác tín mãnh
liệt mình được sai đến cho hết mọi dân thiên tạ thì mỗi một tín hữu được biết
mình là “muối đất” “ánh sáng cho thế gian” (Mt5:13t) : đó là công việc làm
chứng. Truyền giáo khởi sự từ Hội đường, nên Tin mừng đã vang dội không phải
như lời nói đơn độc với người ngoại, nhưng trong khuôn khổ một cộng đoàn sống
đạo. Bên cạnh vị tông đồ giảng đạo (như Phaolô tại trường học của Tyrannô tại
Ephêsô Cv19:9t) chắc có cộng đoàn tham dự, và phụng vụ cộng đoàn cũng nên chỗ
truyền giáo (1Cor14:24t). Ngoài ra còn việc chinh phục bằng tiếp xúc, có lẽ
từng nhà hơn là ngoài phố xá theo kiểu các triết gia rong đường (Mt10:12t
Lc19:5).
Việc chinh
phục đó nhắm đến từng cả gia đình nữa (1Cor1:16 Cv16:15 31 33 18:8), khác với
những đạo bí truyền. Các gia đình đó mở cửa cho những việc hội họp. Giáo hội
địa phương có lẽ làm thành một số những “gia đình cộng đoàn” như thế, chứ không
thể có “toàn thể đại hội” cho cả một địa hạt.
Gia đình
đã nên tiểu tổ của Cộng đoàn, nên nguyên tác “sống chung với đời” được áp dụng
cách hồn nhiên : tín hữu tiếp tục nghề nghiệp địa vị xã hội “mỗi người ai ở
phận nấy”, cả những người vợ của người chồng ngoại, hay nô lệ với chủ ngoại
(1Cor7:20-24) : mà mọi điều đó được thâu nhận hẳn trong lòng tin, thánh Phaolô
nói hãy làm thế “vì Chúa” (Co3:18-4:1) : tín hữu phải dấn thân vào việc đời, để
duy trì sinh hoạt nhân loại chờ ơn cứu chuộc đến cho cả thiên hạ. Cán đáng việc
đời đó cũng là làm chứng cho Chúa như hoạt động ngay trong cộng đoàn (1Cor7:16
1P3:1t) : vì dưới cũng một xã hội và luật lệ chung, tín hữu sống cách khác
người ngoại : trong lời nói, hạnh kiểm và chịu đựng (1P2:12 4:3t). Chịu đựng :
chúng ta thấy xung đột và chống đối xảy ra ngay tự lúc đầu, tuy rằng cuối thời
Phaolô mới có đụng độ toàn diện.
Còn cách
bành trướng, truyền giáo cũng theo những con đường giao thông của đế quốc, và
nhắm đến các trung tâm chính để lan đến hậu phương. Và bởi liên lạc thành này
với thành khác cũng thông thường, nên tuy không có tổ chức theo kế hoạch, mà
Hội thánh cũng liên kết chặt chẽ (nên để ý đến những lời chào cuối thư của
Phaolô : liên lạc cá nhân thay cho một tổ chức, khó được dung túng trong đế
quốc).
No comments:
Post a Comment