Monday, 25 August 2014

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Tông Đồ Công Vụ Chương 7



                                                                   CHƯƠNG 7

TỔ CHỨC CỦA CỘNG ĐOÀN – VẤN ĐỀ HELLENISTAE – 
7 TÁ VIÊN
oOo
BIÊN SOẠN 1 :
Phong trào căn cứ vào hàng tư tế, giáo dân không có đặc quyền, nhưng cũng làm thành một “cộng đoàn”. Có những đại hội gồm cả tư tế và giáo dân cũng gọi là “ha-rabbim” (số nhiều người).
Giai đoạn nhập môn : có thử một năm sống theo Lề luật, nhưng muốn rút lui lúc nào cũng được. Năm sau đó bắt đầu năm tu tập, thời hạn 2 năm. Sau 2 năm đó, tập viên nên tu sĩ thực thụ.
Việc thâu nhận (nhập môn, cũng như mãn hạn tu tập) được đánh dấu bằng những lễ nghi.
Trong cộng đoàn : ngôi thứ rất rạch ròi phân minh.
Sinh hoạt các thầy tu được chi phối bằng lý tưởng “trong sạch” theo kiểu sách Lêvi. Đáng để ý là việc “thanh tẩy” được qui định tỉ mỉ. Hai việc chính trong ngày là lao công và giờ phụng vụ. Chúng ta không được biết rõ phụng vụ đó cử hành thế nào, có lẽ tương tợ như lễ nghi nơi hội đường ngày Hưu lễ. Nhưng có một điều đặc sắc là : tiệc thánh : một bữa ăn gồm có bánh có rượu, dưới sự chủ tọa của tư tế. Bắt đầu bằng lời chúc tụng. Một việc phụng vụ dành riêng cho các thầy tu mà thôi, tập viện cũng không được tham dự, và các thầy phải mặc y phục trắng (như các tư tế).
6:1-7. Việc chọn nhóm 7 người.
Chú giải :
c.1. Cộng đoàn quá đông đảo, nên đã xảy ra những điều khó khăn trong “việc phục vụ thường nhật” – Câu 2 nói đến “giúp việc bàn ăn”.
- Field, Lake : nghĩ đến “chỗ phán tiền” (chắc không đúng).
- Thế thì bàn ăn! Nhưng phải hiểu sao.
a) Hàng ngày có bữa ăn chung, tổ chức cách riêng cho người nghèo. Nhân đó các “phụ tá” hầu bàn.
b) Hay phát chẩn tiền bạc, hay hiện vật?
Hoàn cảnh đương thời có thể Dothái hoặc Hilạp :
Dothái : chứng chỉ muộn hơn thời Tân ước, nhưng có lẽ đã thi hành rồi trong thế kỷ I. Coi Str. Bibllerbeck II, 643tt cho biết : Tế bần cho người trong địa hạt : Ủy ban 3 người thu tiền bố thí mỗi tuần (gabba’ey sdaqah) và để vào quĩ (quppah) (khi đi thu chỉ cần 2 người) và đến ngày thứ 6, cả 3 đứng phát cho người nghèo những gì cần thiết cho 14 bữa (ủy ban khi phát được mang danh : mehallqey sdaqah). Mọi người trong bang Dothái phải cống hiến vào.
Tế bần cho khách ngụ nhờ : 3 người khi quyên lương thực trong một cái khay (mâm) (tamhuy) và ngay sau đó đem phát cho người nghèo (những người không có đủ để ăn hai bữa). Những người ăn mày từng nhà không được hưởng việc từ thiện này.
So với Cv6 : Hội thánh có thể phỏng theo tổ chức này (phục vụ thường nhật : quyên của ăn cho người khách lạ nghèo khó). Vì nhóm “Hi-hóa” có thể gồm nhiều thành phần nghèo khó ngụ ít lâu tại Yêrusalem. Nhưng văn kiện Dothái không nói đến việc dùng bữa chung.
Hilạp : Ngược lại, năng có việc dùng bữa chung, tiệc ngày giỗ, ngày kị : làm thành những “ái hữu” đóng góp để đưa đám người trong hội, hay một người giàu có trối lại món tiền, đặt người quản trị để khi đến những ngày đã định thì con cái, tôi tớ, nô lệ hội lại “ăn giỗ” kính nhớ hương hồn mình.
Agape của Hội thánh có khi đã phỏng theo kiểu này (nhớ: các đồ đệ của Epictète cũng hội lại kính nhớ tôn sư họ).
Nếu thực là thói tục này, thì đó là một sáng kiến của nhóm tín hữu Hilạp : nghĩa “bàn ăn” được hiểu theo nghĩa đen. Nhóm 7 đây đứng tổ chức. Nếu trong buổi ăn cũng cử hành Tiệc ly của Chúa, thì nhóm 7 cũng hầu bàn nữa. Việc tổ chức Agape thực sự có chứng chỉ nhưng thuộc thời sau.
Như vậy có thể có 2 giải thích tùy theo thói tục Dothái hay Hilạp.
Hi-hóa và Hipri.
Chung chung các nhà chú giải hiểu về tiếng nói :
Hipri : tức là Dothái nói tiếng Aram.
Hi-hóa : Dothái nói tiếng Hilạp.
Cullmann (coi : Les manuscrits de la Mer Morte, Colloque de Strasbourg, p.61-74. Secte de Qumran, Hellénistes des Actes et Quatrième Evangile) ông cho : Hi-hóa của Cv là những người Dothái đã nhiễm tinh thần Hilạp, tinh thần dung nạp tư tưởng thói tục Hilạp.
Và nhân tiện ; việc “phục vụ thường nhật” “bàn ăn” đây còn có thể hiểu theo những bữa tiệc của Qumrân nữa.
(Về bữa ăn có tính cách nghi tiết đó : coi
J.T.Milik, Dix ans de découvertes dans le désert de Juda; p.68-70.
Les Manuscrits de la mer Morte, p.75-92 (K.G.Kuhn, Repas Cultuel et Cène Chrétienne).
   Recherches Bibliques 4, p.184-186).
Đây sự đụng chạm gần hơn, nhưng cũng gặp một vấn đề tế nhị, làm sao một Giáo hội có thể tổ chức được như một tu viện Qumrân?
Góa bụa : Tại Yêrusalem có nhiều Hội đường Hilạp-hóa (Cv6:9). Giữa họ có nhiều quả phụ. Dothái các nơi đến lúc tuổi già nhiều khi về lập cư ở Yêrusalem, mong được chôn cất gần bên thành thánh. Vợ góa của những người đó nhiều khi không bà con thân thuộc, nên nhất thiết phải trông vào những tổ chức từ thiện. Những tổ chức của Dothái, một khi đã có sự ghẻ lạnh đối với tín hữu, tất không lo việc ấy nữa. Vậy cộng đoàn Yêrusalem cũng phải lo đến những tín hữu nghèo khó. Đây việc lại trầm trọng hơn, vì hình như lại có sự ghẻ lạnh gì nữa giữa anh em người Hipri và anh em người Hi-hóa.
Câu 2-3 : đề nghị của các tông đồ. Ý của Luca viết các câu này là muốn dạy độc giả biết : tại sao các ngài không thể lo công việc hầu bàn đó và các ngài đã sửa chữa những điều không hay thế nào
Việc chọn những người trợ tá : các tư cách của họ cao lắm: đầy Thần khí và khôn ngoan (có thể hiểu : ơn huệ Thánh thần, nhưng cũng có lẽ là ám chỉ đến sự từng trải thực tế), được chứng chỉ tốt (để mọi người tin cậy). Coi việc chọn “giám thị và trợ tá” 1Tm3:7tt.
Nên để ý : Luca không hề nói đến diakonos, nhưng dùng diakoneĩn (ía).
Bảy người : 21:8 muốn trình diện Philip thì nói “thuộc nhóm 7”; như thế “nhóm Bảy” là một tước. Nên có thể hiểu rõ “bộ bảy” này theo kiểu tổ chức các ban Dothái có “bộ bảy của thành”, “bảy người hảo hạng trong thành” (các nhân viên đó được gọi là parnas, parnasim).
Câu 4 : nhấn đến một đặc sắc của chức vụ Tông đồ “cầu nguyện và phục vụ Lời”. Nhưng nếu so với công việc của Stêfanô và Philip thì cũng không khác mấy tí. Nên phải nói lời chiếu rạng quan niệm tông đồ thời Luca hơn.
Câu 5. Danh sách bảy người được chọn. Ngoài Stêfanô, Philip ra, chúng ta chỉ biết rằng Nicôla theo Irênê (Adv Haer.I,26,3) là người lập ra bè “Nicôla” lạc đạo (Kh2:6 15) (Tertullianus, Epiphanius cũng thế). Nhưng có lẽ đó chỉ là vì trùng tên thôi. Về Nicôla, nói rõ là tòng giáo, và như vậy giả thiết rằng các người kia là Dothái chính tông.
Câu 6 : lần đầu nói đến một cử chỉ truyền chức. Đặt tay lên đầu là tượng trưng cho việc trao nhiệm vụ, chức vụ (đã có nói đến cử chỉ rồi trong Cựu ước : Ds27:18-23 Tl34:9). Cử chỉ đó nên một nghi thức truyền chức các rabbi tại Falệtin (coi là smikah).
Câu 7 : là chuyển đề để nối với trình thuật sau. Kiệu nói thường của Luca đến cắm chặng việc tiến của Hội thánh. Nhưng có một chi tiết cụ thể : có lắm tư tế cũng trở lại. Theo Jerêmias, thì thời Chúa Yêsu, có chừng 18.000 tư tế và Lêvit : 8 ngàn tư tế, 1 vạn Lêvit. Lợi tức của họ quá ít, nên 10 hay 11 tháng trong năm (vì không phải phục vụ tại Đền thờ) họ phải làm một nghề gì để sinh sống.
Bình luận :
Theo kiểu trình thuật  chúng ta có tất cả những yếu tố một chức thánh, vì thế thường gọi nhóm bảy là : những phó tế tiên khởi. Đó là giải thích thông thường từ thời các Giáo phụ.
Nhưng :
1) Khó nhận ra liên lạc giữa việc lủng củng vụ các bà góa với việc thiết lập phó tế. Qui chế mới này có tầm quan trọng hơn nhiều. Nên phải nói, trước kia đã có “diakonoi” không? Ai lo việc phục vụ thường nhật để đến đỗi xảy ra sự kêu trách. Theo c.2 thì không phải các tông đồ. Nếu thế thì đã có “diakonoi” người Hipri, văn bản không nói đến – vả lại trình thuật cho ta cảm tưởng đây là những diakonoi tiên khởi.
Đàng khác 7 người được chọn : tên Hilạp cả. Dĩ nhiên Dothái Hipri cũng có thể mang tên Hilạp. Nhưng đây người đọc phải nghĩ đến Hi-hóa. Nếu Hi-hóa được chọn cả thì lại không phải là chênh lệch sao? Nếu có diakonoi thì dễ hiểu hơn : để tái lập quân bình. Nhưng... coi trên.
2) Theo trình thuật : bộ 7 có nhiệm vụ vật chất. Nhưng Stêfanô, Philip thì cốt yếu lại là : giảng dạy, tranh luận (21:8 Philip : Evangelistès). Các tư cách phải có dễ hiểu hơn về một chức vụ tôn giáo thiêng liêng hơn là vật chất (vì nếu giúp bàn thì cần gì phải khôn ngoan).
3) Việc phân biệt chức vụ tông đồ (cầu nguyện, giảng dạy) và bộ bảy không hạp với thời tiên khởi, nhưng đúng hơn với tình hình Hội thánh thời Luca. Các bà góa cũng gợi đến tổ chức thấy trong 1Tm5.
Do những khó khăn này nên đã có những giải thích cực đoan : Giáo hội Yêrusalem không phải là một mà là hai, một bên các Tông đồ làm đầu, một bên nhóm 7. Có người nói đến li khai (Wellhausen, C.Baur) – hoặc có sự thỏa thuận kết giao giữa 2 nhóm (Bauernfeind) hoặc Luca bịa ra để trình bày việc “2 nhóm” này (Loisy). Gaechter : nhóm 7 toàn quyền lo mục vụ cho nhóm Hi-hóa; còn cho nhóm Hipri, các Tông đồ sẽ đặt “kỳ cựu” (11:30).
Những nhận xét :
9:31 8:1 nói đến cấm cách chung cả Giáo hội.
Nhưng 11:19tt có những người phải tẩu thoát phải lánh xa; 8:1 lại thêm mọi người đều phải tản mác, nhưng trừ các tông đồ. Ngược với 12:1tt muốn phá Hội thánh, người ta bắt những người làm đầu trước hết.
Vậy cấm cách lần này đụng chạm đến nhóm của Stêfanô. Và khi xảy ra bắt bớ, Hội thánh Yêrusalem có 2 nhóm, người ngoài cũng nhận ra được, 2 nhóm mà Luca gọi là Hipri và Hi-hóa. Thành phần nhóm Hi-hóa thế nào có thể dựa vào 6:9 để hiểu : đối thủ của Stêfanô : những người thuộc các Hội đường Dothái kiều cả, không phải Dothái sinh trưởng tại Falệtin. 11:20 trong những người thuộc nhóm của Stêfanô lại cũng có người thuộc xứ Kyrênê, nghĩa là đồng quê với một phần đối thủ của Stêfanô (ở 6:9).
Vậy có lý mà hiểu rằng : biến cố xảy ra trong hàng ngũ Dothái kiều mà Luca gọi là Hellenistae : Hi-hóa. Stêfanô cùng các bạn đều thuộc hạng Dothái này. Stêfanô cùng các bạn đã cố gắng giảng đạo thuyết phục những người thuộc các hội đường xưa kia họ đã từng lai vãng trước khi thành tín hữu Kitô giáo. Một điều giống như Phaolô : 9:29t. Vậy việc bổ nhiệm nhóm bảy này là việc tổ chức Giáo hội Hi-hóa.
Vậy phải phân biệt điều Luca muốn cho thấy trong trình thuật và công việc bình luận về ký ức còn giữ lại. Luca đang dọn vào sự nghiệp của Stêfanô : đây cho thấy công việc công khai của ngài bắt đầu thế nào trong cộng đoàn. Mà trong ký ức Luca thâu nhận được đây là lần đầu có những “diakonoi” xuất hiện, mà diakonoi như Luca biết được lại là diakonoi : phó tế trong những buổi hội phụng vụ dùng Agape, nên Luca đã bớt tính cách đặc sắc của nố đặc biệt Hi-hóa mà chú trọng đến qui chế chung hơn của Hội thánh thời sau, và coi đây như sự thành lập chức phó tế trong Hội thánh.
Bởi coi nhóm 7 như phó tế tiên khởi nên đã có cái khó khăn 1); giảm bớt công việc mục vụ của nhóm 7, nên có cái khó khăn 2); nhấn vào sự phân biệt quyền chức, nhất là nhân dịp Agape, nên có khó khăn 3).
Còn những ký ức tiên khởi muốn nói gì, theo bình luận chứng chỉ như trên kia, chúng ta có thể rút ít điều này :
- Ngay trong cộng đoàn Yêrusalem, đã có những người nói tiếng Hilạp – có những người chỉ biết tiếng Aram mà thôi, mà cũng có những người chỉ nói tiếng Hilạp. Giữa 2 cực đoan đó có những người nói được là biết 2 thứ tiếng, nhiều ít tùy nghi. Việc học tiếng Hilạp chung thì hình như người ta không ưa, nhưng luật trừ lại rất nhiều (coi Bonsirven, Textes rabbiniques, No.497 652 637). Tại cộng đoàn Yêrusalem, coi Huxby – Léon-Dufour : L’Evangile et les évangiles 54-58.
Trong số những người theo Chúa lúc sinh thời, lắm người cũng đã biết tiếng Hilạp. Họ cũng đã là chứng nhân, và họ cũng truyền giáo. Vậy khi những người chỉ biết tiếng Hilạp trở lại, thì công việc giảng dạy cho họ phải cho những người thạo tiếng Hilạp hơn các tông đồ. Cộng đoàn không chia rẽ cũng phải phân nhóm : một nhóm Hipri (tất nhiên là ở ngay dưới sự chi phối trực tiếp của nhóm 12), một nhóm Hi-hóa (dĩ nhiên ở dưới những người hiểu tiếng họ hơn, do các Tông đồ ủy thác cho việc giảng dạy, điều khiển). Tổ chức thế nào? Bộ 7 làm ta nghĩ liền đến cách tổ chức vốn đã có rồi giữa các bang Dothái. Tất nhiên tổ chức đó còn sơ sài, hạp theo hiện tình của cộng đoàn. Những người này có phận sự của tiếng diakonos theo nghĩa thường của người đương thời : người giúp đáp, giúp việc, trợ tá cho các tông đồ. Đàng khác 6:9 cho ta thấy nơi họ hoạt động là các Hội đường, mà tổ chức Hội đường đã có hazzan : một thứ quản giáo, vừa làm từ ngữ hội đường, vừa điều khiển phụng vụ hội đường, vừa có quyền tài phán những vụ nho nhỏ, lại vừa lo giảng dạy, ít là đối với hạng trẻ (theo Klausner, Kraus). Thường thường có hai người.
- Đến khuynh hướng của nhóm 7 thế nào, chúng ta biết là nhờ ít chi tiết trong diễn từ Stêfanô. Và do đó chúng ta thử nhìn lại hiện tình của đạo Dothái đương thời. Khi đó thì ta phải châm chước cho hình ảnh nhất khối ta thường có về toàn dân hướng về Đền thờ Yêrusalem. Thái độ chung : tôn giáo, theo ý thức chung và công khai, là phụng thờ Thiên Chúa bằng tế lễ nơi Đền thờ độc nhất. Hội đường chỉ là nơi hội họp chung cho địa phương nào xa. Nhưng một đạo chính truyền có một tín điều nhất khối hình như không có: có nhiều điều khác nhau giữa bè Sađóc và Biệt phái, bây giờ ta lại có nhóm Qumrân nhất định không lui tới Đền thờ, chỉ giữ phụng vụ hội đường mà thôi. Xét thế thì rất có thể rằng khuynh hướng của nhóm Hi-hóa có lẽ theo nhóm cuối cùng này, và trung tín với thái độ của Chúa Yêsu đối với Lề luật.
- Thế thì ngoài việc phân biệt về tiếng nói, còn có sự phân biệt về khuynh hướng. Khuynh hướng Hi-hóa tất không được cộng đoàn Hipri chấp nhận (họ rất sốt sắng lai vãng Đền thờ). Và từ chỗ ghẻ lạnh về khuynh hướng đó, có thể đến chỗ kỳ thị về việc từ thiện, làm cho các bà góa Hi-hóa bị rẻ rúng. Bây giờ nếu nhóm Hi-hóa tự động tổ chức lấy việc tế bần trong nhóm của họ, thì nhóm Hipri cũng không muốn gì hơn nữa, và như thế các Tông đồ để cho nhóm Hi-hóa tổ chức lấy cả về việc giảng dạy truyền giáo, cả về việc từ thiện. Điều đó hiểu được và cũng cho hiểu được tại sao nhóm Hipri lại không bị bắt bớ. Sự thù dị ngay giữa cộng đoàn tiên khởi đó, ta không nên lấy làm lạ và phải thẩm định một cách phải chăng. Lý tưởng cộng đoàn tiên khởi của Luca là “đồng tâm nhất trí, là nên một cùng nhau, là mọi sự đều là của chung”. Thế mà lại có sự lủng củng như 6:1, và Luca đã giữ lại, nghịch với bức họa đẹp đẽ từ trước đến giờ, thì đó là một điểm son cho tinh thần quí chuộng sự thật của Luca.
Bây giờ nếu ta xét về ảnh hưởng xã hội học của tiếng nói, thì ta còn phải nhận rằng với việc nói tiếng khác, thì lại còn có văn hóa, phản ứng, cởi mở hay cự tuyệt đối với thế giới bên ngoài mình đã đụng chạm. Đằng sau những sự ghẻ lạnh bên ngoài (như việc từ thiện) còn có bất đồng quan điểm về tương lai Kitô giáo (quan điểm Yêrusalem coi Cv 11:1 3 15:1-5 21:20-24, và truyền thống về Yacôbê). Quan điểm Hi-hóa chúng ta sẽ thấy nơi Stêfanô, nơi Philip (8:4) và các kẻ khác 11:19tt. Và sau cùng Phaolô sẽ xuất thân tự nhóm họ.

BIÊN SOẠN 2

Với sự việc xuất hiện của những người mà Công vụ gọi là Hellenistae, Hội thánh đã đặt thấu một chỗ ngoặt trong lịch sử. Từ trước đến bây giờ chúng ta có thể quan niệm chung chung cộng đoàn tiên khởi như “Một nhóm người cùng chung lòng tin tưởng vào Yêsu” như Mêsia và trông đợi cuộc tái lâm của Người và đã sống, cách riêng tại Yêrusalem, một đời sống yên thấm, đạo đức theo nghĩa Dothái. Đời sống họ thuộc hạng bình dân nghèo khó, không có gì đặc sắc, phi trừ một xác tín thẳm sâu và hứng khởi. Nhưng phải thú nhận là trình thuật của Công vụ đã quá đơn giản hóa (mọi sự đều tập trung tại Yêrusalem – một cách đột ngột đoạn thứ 9 nói đã có tín hữu tại Damas! – và còn Galilê, quê của các Tông đồ?); Nhưng cũng phải nhớ rằng Luca không có bao nhiêu nguồn tin về những năm đầu, và cố khai thác ít chi tiết còn lưu lại. Bây giờ đột ngột xuất hiện một nhóm người mệnh danh là Hellenistae (nghĩa khó xác định), có tính cách tiền phong và hoạt động ráo riết, tương lai Hội thánh phần lớn đã được đánh dấu bới sự hiện diện của những người này.
I. VIỆC CHỌN BẢY NGƯỜI TÁ VIÊN (6:1-7)
1/ Cộng đoàn tăng thêm người, thì trắc trở gay go cũng xuất hiện Luca không nói lỗi tại ai. Nhưng đã có hai nhóm người trong Cộng đoàn “Hebraei và Hellenistae”. Muốn có một ý tưởng thì nên nhớ rằng tại Yêrusalem có nhiều người Dothái sinh ở ngoại quốc đã về ở tại đó. Họ có nhiều Hội đường. Chắc rằng Kitô giáo đã chinh phục nhiều người trong nhóm họ. Có lẽ số những bà góa Dothái hồi hương đó khá lớn. Vì nhiều người Dothái đạo đức về già đã về lại Yêrusalem và lưu lại đó để được chôn cất nơi thành thánh. Vợ góa của các người đó vì không có bà con trong xứ nên tất nhiên cần phải được một cơ quan công khai nào trợ cấp. Hình như các tín hữu cũng đã tổ chức một cơ quan tương tợ Dothái. Đó là một điều cần thiết khi họ không còn mong cơ quan tế bần của Dothái đoái hoài đến họ. Điều đó giả thiết một thời gian phát triển tồi và giữa cộng đoàn tín hữu và người Dothái đã có những sự ghẻ lạnh.

Hebraei – Hellenistae

Chung chung các nhà chú giải hiểu : Hebraei : Dothái nói tiếng Aram – Hellenistae : Dothái nói tiếng Hilạp.
Chứng : Yoan Kim khẩu đã nghĩ như thế, Philô có lần viết: như Hebraei nói là Phanuel, còn như chúng tôi thì nói “apostrophê Theou” : như thế là phân biệt giữa Hebraei và “chúng tôi”, những người Dothái nói tiếng Hilạp. Nhưng phải nhớ là chứng chỉ văn kiện hiếm hoi (vì việc đối chọi như thế họa hoằn mới có trong văn chương).
Cadbury : Hellenistae là những người ngoại trở lại. Nhưng khó nhận lắm : trong 7 người có 1 người tòng giáo thì được nói rõ ra như thế là giả thiết các người khác là Dothái – Làm sao những người ngoại trở lại đạo Chúa Kitô lại đi tranh luận trong những Hội đường của Dothái kiều?
Cullmann : Hellenistae trong Công vụ là những người Dothái có khuynh hướng hỗn hợp về tôn giáo. Thuyết muốn tằng vào các văn kiện Qumrân – nhưng chứng không vững mấy. Ít ra không cắt nghĩa được tại sao Luca đối chọi Hebraei và Hellenistae.
2/ 12 Tông đồ cho triệu tập đại hội, đề nghị để cộng đoàn định đoạt. Non est aequum (non est phacitum) : chỉ một điều không phải (chiếu theo ý Thiên Chúa). Không phải nói về quá khứ : như thể các Tông đồ phàn nàn vì đã quá lo việc “ministrare” để đến nhãng bỏ việc giảng dạy. Nhưng phải hơn là để cắt nghĩa tại sao các tông đồ không thể tự họ đảm nhiệm công việc “ministrare mensis”. Nhưng lời này cho thấy sao các Tông đồ không thể lĩnh lấy nhiệm vụ từ thiện kia được.
3/ Câu này hình như theo mẫu Dân số thư 27:16tt. Những điều kiện nêu ra nhắc đến những yêu sách của 1Tim 3:7tt về các Episcopoi và diakonoi. Nhưng Luca tránh tiếng diakinos ở đây (tuy có nói đến “minisiterium”, ministrare. Độc giả sẽ hiểu ngay về diakonoi trong Hội thánh. Cả ủy ban được mệnh danh “Bảy” (người) (coi 21:8), có lẽ phỏng theo Tổ chức Dothái : ban đứng đầu cộng đoàn Dothái địa phương gồm có 7 người).
Considerate... constituamus : cộng đoàn được tuyển lựa, nhưng các Tông đồ phong chức, Luca tả cảnh theo kiểu cách cộng đoàn thời ngài.
4/ Các Tông đồ thì chuyên cầu nguyện và giảng dạy. Luca muốn chúng ta hiểu rằng các Tông đồ là những người cầu nguyện chuyên môn và nhờ đó mà cộng đoàn được mọi ơn ích.
5/ Tuyển lựa 7 Hellenistae.
Plenum fide : có lẽ nói đến lòng tin mạnh làm phép lạ (2Cor 13:2b).
Hicolaxus : từ Irênê, Nicolaos này được coi như người sáng lập bè Nicolaitae. Nhưng có lẽ chỉ vì trùng tên. Chỉ có ông này là “proselytus” (tòng giáo), nên phải kết luận các kẻ khác là Dothái.
6/ Việc đặt tay để phong chức, có lẽ cộng đoàn đã phỏng theo kiểu của Dothái (Dst 27:18-23 (trên Giosua), 8:10 (Lêvít). Tượng trưng cho việc chuyển phép hay quyền để đảm được nhiệm vụ – và đây thành dấu chỉ ban ơn.
7/ Verbum Domini được nhân cách hóa. Tiếng đó đã nên như “Đạo Chúa Kitô”. Turba sacerdotum : một chi tiết cụ thể đáng để ý. Theo J.Jeremias tính thì thời đó có chừng 10.000 Lêvít – và chừng 8.000 tư tế. Lợi tức của họ không là bao. Nên thời rảnh việc tế tự (chừng 10 hay 11 tháng) họ phải làm một nghề gì. Giữa hàng tư tế thường và hàng đại tư tế sự chênh lệch quá xa. Theo Josephus thì có những đại tư tế sai đầy tớ của họ tới sân lúa của tư tế mà thu thuế thập phân – và có khi có những tư tế thiếu thốn đến chết đói. Vì thế giữa tư tế và đại tư tế có sự căng thẳng quá rõ.
Bình luận.
1/ Việc tuyển lựa bộ-bảy trong mạch lạc của Công vụ : Luca chỉ muốn cắt nghĩa về thân thế Stêfanô (dẫn vào truyện tử đạo): địa vị của Stêfanô bắt đầu làm sao. Cộng đoàn tăng số bởi đó có sự bất hòa giữa nhóm “Hilạp hóa” (Hellenistae) và nhóm “Hibá”. Duyên do vì những bà góa thuộc Hilạp hóa không được săn sóc chu đáo. Các tông đồ mải miết với kinh nguyện và giảng dạy không thể nào nhận thêm công việc đó nữa, nên dạy cộng đoàn tuyển lựa 7 người để lo công việc vật chất đó. Trong số 7 người đó, Stêfanô của chúng ta là người trổi trang nhất.
2/ Ministerium quotidianum, Ministrare mensis.
Trong văn bản nói đến “bàn” : bàn đây đúng hơn phải hiểu về bàn ăn. Nhưng thực sự ám chỉ về việc gì?
   a/ Những bữa ăn chung mỗi ngày? Hay những bữa ăn dọn riêng cho những người nghèo khó, và trong đó các “tá viên” đây giúp?
   b/ hay là những phát chẩn (tiền hay hiện vật), để những người nghèo tự lo liệu lấy? Có thể đối chiếu với tục lệ khác :
Kiểu Dothái, chứng chỉ trong các sách rabbi, có lẽ đã áp dụng rồi vào thế kỷ I : có 2 cách tế bần :
i) các người nghèo khó địa phương thì cứ mỗi tuần (thường là thứ 6) được lĩnh một số tiền đủ cho 14 bữa ăn. Tiền đó đã do hai người đi quyên nơi những người trong xứ và bỏ vào một quĩ (gọi là quppâh).
ii) Những người nghèo ở xa đến tạm dừng lại thì mỗi ngày được phát chẩn vật thực. Vật thực đó cũng do 3 người từ thiện đi quyên trong các gia đình bằng một cái mâm (tamhuy).
Những người ăn mày không được hưởng những trợ cấp này (ngoài ra còn có quĩ riêng cung cấp áo sống cho người nghèo, người trong địa hạt, cũng như người xa đến. Đàng khác trong Hội đường cũng như nơi đền thờ có hòm tiền để thu những của dâng cúng).
Có thể hiểu Công vụ theo tổ chức Dothái này. Nhưng không hoàn toàn đúng với một kiểu nào trong hai kiểu trên này.
Văn kiện các rabbi không nghĩ đến bữa ăn chung. Người nghèo lĩnh đồ phát chẩn và tự liệu lấy. Phải nói rằng người Dothái chung ra không có thói bày những bữa ăn chung như thế, trừ ra nhóm Qumrân, và tiệc lễ Paskha.
Kiểu Hilạp
Trong thế giới La-Hi thì những bữa tiệc, nhất là tiệc ngày giỗ, là một điều thường thấy.Người ta tổ chức hội đoàn, trong đó mỗi người góp phần để cứ hành việc tiệc giỗ, hay là để làm ma chay cho người trong hội, - có khi một người giàu có trối lại món tiền để đến ngày nào đó thì con cái, tôi tớ, nô lệ tề tựu lại để cử hành tiệc giỗ để nhớ đến họ. Người ta đã đem so sánh các bữa ăn đó với những bữa “agapai” trong Hội thánh. Và thực sự thì rất có thể là những tín hữu Hilạp vẫn giữ thói tục của thế giới La-hi khi chịu đạo và đã tựu họp để kính nhớ Chúa Yêsu, cũng như những môn đệ của Epictetos đã làm để nhớ tôn sư họ. Và nếu thế thì nhóm tín hữu Hilạp-hóa này đã nhập cảng vào Hội thánh một thói tục mới. Và như thế thì có thể cho tiếng “bàn” (mensae) trong trình thuật một nghĩa đầy đủ hơn, 7 người được chọn đây có thể là những người đứng tổ chức không nhất thiết phải đứng hầu bàn. Mà nếu như trong những bữa ăn đó lại có cử hành “Eucharistia”, thì các “người được chọn” này đứng đầu bàn, nghĩa là phụ giúp vào “Eucharistia”. Tục lệ này có chứng chỉ về thời sau.
Tóm lại có thể hiểu hai cách tùy theo người ta quan niệm tổ chức Hội thánh theo kiểu từ thiện Dothái – hay tiệc thế giới La-hi. Nếu theo Dothái thì “ministrare mensis” chỉ trông việc quản lý của cải vật chất. Còn nếu theo kiểu Hilạp thì “ministrare mensis” có nghĩa xác đáng hơn : “bàn” hoặc là chỉ những bữa ăn tổ chức cho người nghèo cách riêng, nhất là cho người góa bụa – hoặc chỉ “agapai” trong đó có cử hành “Eucharistia”. Những tá viên được chọn đã được phong chức thực sự : trong đó có mọi yếu tố của một việc công khai : tín hữu tuyển lựa (chứ không bắt thăm) – các tông đồ phong chức (cầu ngyện và đặt tay). Và như thế là có một chức thánh mới. Các giáo phụ thường đã hiểu như thế. Nhưng Yoan Kim khẩu dụ dựa. Và quả thực thì Luca không hề dùng trong truyện tước “diakonoi”. Vậy thì ít ra là giai đoạn tiên khởi cho chức thánh “phó tế” sau này. Giải quyết như vậy bằng vào trình thuật Công vụ như một báo cáo hoàn toàn khách quan, hoàn toàn đúng theo sự thực.
3/ Bình luận văn chương và lịch sử
Những khó khăn chính gây nên bởi trình thuật :
   a/ Không liên lạc rõ ràng giữa việc xảy ra về các bà góa và việc thiết lập các “tá viên”. Tổ chức mới này không chỉ nguyên vì chuyện bất mãn kia mà phát sinh ra, và đàng khác lại có tầm quan trọng hơn cái khuyết điểm khơi ngòi. Vì có thể hỏi :
   - Thế thì trước kia chưa có “tá viên” sao. Ai lo trước kia “ministerium quotidianum”. Hình như không phải các Tông đồ chiếu theo câu 2. Vậy thì là các “tá viên” Hi-bá. Nhưng văn bản không có một ám chỉ (trừ D (codes Bezae) có thêm : in ministerio Hebraeorum”). Nhưng trình thuật của Luca thì hình như đây là lần đầu mà những người “tá viên” xuất hiện.
   - Nếu việc tuyển lựa này là lần đầu, và nhân vì việc bất mãn trong việc quản lý vật chất, thì lại có điều khó khăn khác nảy ra : những người được chọn đều mang tên Hilạp – Điều đó có khi Dothái sinh trưởng tại Falệtin cũng làm thực – nhưng đây tự nhiên là hiểu về nhóm Hilạp-hóa. Việc tuyển lựa như thế sẽ lật hẳn cán cân : Người Hi-bá từ nay có thể kêu ca là mình bị thiệt thòi.
   b/ Theo trình thuật, thì bộ-bảy này chỉ có một nhiệm vụ vật chất : Hầu bàn (nghĩa rộng nào đó). Nhưng đọc thêm Công vụ thì người ta thấy họ đảm đương một vai trò khác hẳn : trước tiên là thiêng liêng : Stêfanô giảng và tranh luận, Philip giảng và rửa tội. Cv 21:8 : Philip được gọi là Evangelista. Và ngay trong trình thuật, những điều kiện để được tuyển lựa vượt quá trách nhiệm “hầu bàn” nhiều, chỉ tương xứng với một công tác thiêng liêng (c.3). Như thế là có các trắc trở thứ hai : vai trò của bộ bảy không hòa hợp theo các đoạn Công vụ.
   c/ Phân chia trách nhiệm giữa bộ bảy (như diakonoi) và 12 Tông đồ cách rõ rệt như vậy không hợp thời vào lúc sơ khai này – dể hiểu về tình trạng thời Luca : giữa các episkopoi và các diakonoi. Nhất là nếu nhận giải thích ministrare mensis như là tiệc Eucharistia trong đó công tác của chức dịch được phân chia rạch ròi : người chủ sự cầu kinh và giảng dạy, còn các diakonoi phân chia các thức ăn của Agapai cùng Thánh Thể. Và nếu hiểu rõ bộ bảy như diakonoi, thì những bà góa đây cũng nhắc đến một qui chế giáo hội về thời sau như thấy trong 1Tim5.
Giải thích của các nhà bình luận.
Đứng trước những cái ngang ngang như thế, người ta đã kiếm cách giải thích :
Wendt : lấy làm lạ là cộng đoàn còn quá nhỏ (có thể tựu hội nơi một chỗ) và lại có người nghèo (thế thì chung của cải thế nào?).
Preuschen : 7 người đây lo phần thiêng liêng cho Tòng giáo cũng như 12 tông đồ lo cho Dothái chính cống.
Wellhausen : Bộ bảy đây là hàng lĩnh đạo Hilạp-hóa. Trong Hội thánh đã có ly giáo khơi ngòi.
Loisy : việc tuyển lựa 7 người đây nghĩa là nhóm Hilạp-hóa được tổ chức; việc tách biệt làm hai nhóm chưa hẳn là ly giáo.
Lake : thí nghiệm cộng sản trong đ.4 thất bại, vì dân chúng nổi dậy chống những người quản lý, hoặc giết chết hoặc đuổi họ đi.
Beyer : đã hẳn có hai nhóm, nhưng họ đã hợp một : 12 Tông đồ công nhận bộ bảy và tìm cách đặt họ dưới quyền mình.
Bauernfeind : 12 tông đồ trao phú công cuộc từ thiện của cả cộng đoàn cho những thủ lĩnh Hilạp-hóa; nhưng hai nhóm không đúc thành một được – vì sau này chỉ có nhóm Hilạp hóa bị bắt bớ.
Gaechter : Các tông đồ ban cho 7 người đầy đủ quyền chức để lo săn sóc nhóm Hilạp hóa về thiêng liêng. Và một trật hay ít lâu sau cũng thiết lập “bộ bảy” khác cho Hibá với những trách nhiệm như bộ bảy nói đây. Bộ bảy Hibá khi thành phần Hilạp hóa phải trốn đi thì đã thành “seniores” (presbyteroi) (11:30 15:6 21:19), một ủy ban có Jacobus, thân thích Chúa Yêsu cầm đầu. Các Tông đồ đã ban cho cả hai “bộ bảy” chức quyền thiêng liêng như chính các Tông đồ có (như thế là những Giám mục), nhưng các tông đồ còn dành riêng việc đặt tay (thêm sức) (chiếu theo Cv 8:14tt về nố Philip). Khi bộ bảy Hilạp hóa rời Yêrusalem thì giới hạn kia cũng được cất nốt.
Giải quyết.
Luca đã xử dụng một truyền thống cựu trào (nhiều tác giả cho là một văn kiện Antiokia) nói đến nhóm Hilạp hóa chứ không bàn đến chung cả Giáo hội Yêrusalem. Nên phải hơn thì hãy hiểu là tất cả biến cố diễn ra tại trụ sở Hilạp hóa. Luca không thuật lại điều xảy ra trong nhóm Hi-bá. Có thể rằng nhóm đó đã có những tá viên rồi. Nhưng Luca thuật như thể đây là lần đầu tổ chức mới xuất hiện. Ấy là vì Luca xử dụng biến sự này không chiếu theo một phương diện riêng biệt của nhóm nào nhưng là chiếu theo quan điểm sử gia thời sơ khai của Hội thánh, và quan điểm văn sĩ châm chước sao để nhân vật chính trong truyện truyền giáo được nổi bật lên : Phaolô. Vì thế Luca để lu mờ vai trò lĩnh đạo của “bộ bảy” đây (kẻo lấn át mất tư tưởng : vào thời đó chỉ có 12 tông đồ hoạt động thiêng liêng – và kẻo giảm sáng kiến truyền giáo của Phaolô sau này): trong Hội thánh thời sau có một qui chế quan trọng? Các diakonoi, Luca chụp cơ hội vào một địa vị nào đó mà độc giả hiểu được. Tóm lại thì Luca coi “bộ bảy” đây là những “diakonoi” tiên khởi, bởi đó cái khó khăn thứ nhất nói trên (3.a/).Luca làm lu mờ vai trò giảng dạy, lĩnh đạo thiêng liêng của bộ bảy đi, vì thế có khó khăn thứ hai (3.b/). Rồi Luca nhấn mạnh vào trách nhiệm vật chất, và có lẽ tác dụng của các diakonoi trong các “agapai” thời sau, bởi đó có khó khăn thứ ba (3.c/). Rồi quan điểm đại đồng hóa của tác giả làm nảy ra những điều ngang ngang khi đọc các chương khác. Cv 8:1. Cả cộng đoàn tín hữu bị bắt bớ (nhưng lạ là trừ ra các Tông đồ) và bị phân tán. Thế mà 9:31 chúng ta lại thấy cộng đoàn vẫn an toàn một nơi; rồi 11:19tt các kẻ bị phân tán vẫn đi lại yên ổn trong xứ. Như thế là không phải cả cộng đoàn bị bắt bớ (chẳng vậy thì những kẻ cầm đầu, các tông đồ, sẽ bị bắt trước tiên), mà chỉ có một nhóm : dothái kiều tại Yêrusalem (Hilạp hóa tức là Dothái kiều về ngụ tại Yêrusalem), cũng tương tợ như Phaolô 9:29t về Yêrusalem thì giảng tại hội đường của Hilạp hóa, thì Stêfanô... cũng giảng cho Hilạp hóa. Phaolô giảng cho những người chắc là đồng hương với mình chiếu theo Cv 6:9 thì tại Yêrusalem có nhóm người thuộc Xilixia, quê của Phaolô, Hilạp hóa như thế là Dothái kiều nói tiếng Hilạp. Bộ bảy và cách riêng Stêfanô giảng và tranh luận trong Hội đường của nhóm người đồng hương xưa, và thành công lớn. Và bởi đó có bắt bớ. Tại sao? Chắc không chỉ vì giảng Chúa Yêsu là Mêsia (Yacôbê tin và giảng như thế mãi cho đến năm 60), chắc cũng không phải vì đã rửa tội cho người ngoại, nhưng chiếu theo 6:14 thì phải hiểu là trong lời giảng dạy của họ đã có cái gì mà Dothái không thể chịu được : sự tự do đối với lề luật Môsê (và như thế thái độ Hilạp hóa tiếp xúc trực tiếp với đạo lý của Chúa Yêsu. Mc2:27 7:15).
Kiểu giảng này không phải chỉ chướng tai người Dothái, mà có khi không ưa bụng bao nhiêu với chính hữu “Hi-bá”. Và như thế trong cộng đoàn cũng đã có sự ghẻ lạnh. Sự ghẻ lạnh đó có lẽ đã tỏ bày ra bên ngoài (thí dụ nhân dịp từ thiện, săn sóc cô nhi quả phụ, người Hi-bá cố ý làm lơ đi) – vì thực sự người ngoài cộng đoàn cũng dòm thấu được để họ có thể phân tách nhóm người quá khích trong Cộng đoàn ra khỏi những người khác : cuộc bắt bớ cho thấy giữa Cộng đoàn có sự lủng củng. Sự lủng củng ngoài mặt, như việc xảy ra cho những người góa bụa đây chỉ là dấu hiệu, sự xung khắc thâm hơn ấy chính là quan niệm về tương lai Hội thánh: bảo thủ Lề luật hay là khuynh hướng phổ cập, vượt quá Lề luật, tự do với Lề luật và qui cũ tôn giáo cũ.
Còn người lạc Cộng đoàn Hi-bá vẫn theo lề lối Dothái cũ, cứ tiếp tục hành lễ nơi Đền thờ, giữ trọn Lề luật (coi phản ảnh của tinh thần đó 11:1-3 15:1-5 21:20-24). Hilạp hóa đối lại có khuynh hướng khoáng đạt, thoát ly với những khuông khổ chật hẹp của đạo Dothái và hiên ngang đem Tin lành đi phương xa. Khuynh hướng đó được biểu lộ nơi Stêfanô, nơi Philip. Stêfanô có lẽ là phát ngôn nhân cho khuynh hướng này. Lần đầu tiên Kitô giáo đặt lại vấn đề về việc tế tự nơi Đền thờ, về giá trị Luật Môsê. Vì thế ngài phải chết, và nhóm Hilạp hóa bị phân tán, trục xuất khỏi Yêrusalem – Còn các tông đồ (và dĩ nhiên là cả nhóm Hi-bá) vẫn yên hàn sống tại Yêrusalem (8:1), cộng đoàn Hi-bá vẫn sống động (8:14 9:31 11:2-22), nhưng đó là sống gượng, để chờ chiến tranh năm 70 mới chạy trốn. Sau chiến tranh đó, nhóm Hi-bá có lẽ sáp nhập hoàn toàn với Hội thánh dân ngoại hay là biến thành lạc đạo, vì cứ trì trì trong thần học Cựu trào, Chúa Yêsu chỉ là Mêsia nhân lại và biến thành bè Ebionit. Còn chính nhóm Hilạp hóa sẽ đem Tin lành ra ngoài Falệtin (8:4 11? 19tt). Phaolô phát xuất tự nhóm này. Không phải là giảm giá trị của Phaolô khi ta nói rằng tinh thần phổ cập đại đồng của Phaolô một phần lớn đã nhờ vào nhóm tín hữu Antiokia, nơi mà Phaolô tập sự truyền giáo. Có lẽ Luca muốn làm nổi bật sáng kiến cả vai chính trong Công vụ, nên đã giảm bớt phần nào tính cách khởi sáng của “bộ bảy” nghĩa là nhóm Hilạp hóa, và dành tất cả sáng kiến truyền giáo Dân ngoại cho Phaolô.
Trong một nhóm có tinh thần cách mạng như thế đối với đạo Dothái, thì dễ hiểu là bộ bảy đây là nhóm thủ lĩnh, cáng đáng một vai trò lớn hơn nhiều vai trò tá viên của các tông đồ trong công việc quản lý vật chất. Hình như đối với nhóm Hellenistae họ có vai trò tương đương như 12 Tông đồ đối với nhóm Hi-bá. Có lẽ họ có quyền chưa đủ để điều khiển các phiên họp, cử hành Eucharistia. Đó là một điều dể hiểu, giữa nhóm người hầu như chỉ biết tiếng Hilạp. Kinh thánh cũng đọc bằng tiếng Hilạp, thì chắc là các Tông đồ không thể không ký thác công việc giảng dạy, điều khiển cho những người cùng tiếng với nhóm đó. Trình thuật không cho phép coi bộ bảy như tự lập, hay chống đối với 12 Tông đồ. Phải hơn là hiểu họ như tùy thuộc các Tông đồ, chịu lấy chức quyền bởi các Tông đồ. Nhưn cũng đừng hiểu thời đó với quan niệm quyền hạn rạch ròi thời sau.

No comments: