CHÚ GIẢI ÍT
CHI TIẾT.
Vấn đề Yuđa chết so
giữa Cv và Mt 27:3-10 (coi P.Benoit, Exégèse et Théologie, I, 340-359 : La mort
de Judas).
Chúng ta
phải nhận rằng trình thuật đã khá xa biến cố (Cv cũng như Mt) : đến đỗi có thể
thành một truyện “suy nguyên luận” về một thửa đất gần Yêrusalem, và mỗi bên
hiểu một đàng.
Cả 2 trình
thuật đều dụng tâm vào việc “lời Kinh thánh được thành tựu” (vấn đề chú giải Mt
khá rắc rối về những tiên tri trưng ra). Còn về cách chết của Yuđa : không thể
giảng hòa giữa 2 trình thuật. Nhưng đây chúng ta cũng phải nghĩ đến việc thành
tựu lời Kinh thánh : Mt nghĩ đến gương một kẻ bội phản trong Cựu ước :
Akhitophel (2S 17:23). Còn Cv nghĩ đến Kng 4:19 : Cái nhiên hơn cả là Hội thánh
sơ thời đã nhìn thấy Người Công Chính bị bắt bớ là Chúa Yêsu và như thế hạng
tội ác không hiểu, và đã bắt bớ giết người công chính được nhìn thấy nơi Yuđa.
Đích thực Yuđa chết thế nào, chúng ta có thể dụ dựa, nhưng thực sự kiểu chết
như trong Mt không có gì bác được.
Cái chết
đó có liên lạc với một thửa đất. Hai trình thuật đặt liên lạc khác nhau. Đây
cũng vô phương giảng hòa. Cv muốn áp dụng lời Tv 69:26, và muốn nói lên rằng
của phi nghĩa do tội ác không béo bổ gì cho Yuđa.
Heqeldama
: thuộc khu ngoại ô Yêrusalem nằm chỗ gặp nhau của 3 thung lũng : Kêdrôn,
Tyropoeon, Gê-Hinnom : nói được là khu kỹ nghệ : vì sẵn nước và lửa (nhờ luồng
gió dễ đốt lò) : có thợ gốm, nghề nhuộm, nghề đúc. Rồi kỷ niệm nhớ lại những
đống lửa xưa kia dân dị đoan Yêrusalem thiêu người (Yr 19:13). Rồi đó cũng là
nghĩa địa nữa. Một khu vực “khả ố” đáng nhờm tởm.
Tóm lại
chúng ta chỉ hội ra được những thành phần cấu tạo nên một trình thuật bình dân;
liên lạc giữa hết các yếu tố với cái chết của Yuđa khó mà hội ra được thực sự
thế nào.
C.21-22
chúng ta có một định nghĩa về chức vụ tông đồ theo đạo lý Cv. Tông đồ là kẻ nối
thời Hội thánh với thời Chúa Yêsu : nhân vật lịch sử với những người lịch sử.
23. Theo
đề nghị của Phêrô, cộng đoàn tiến cử 2 người.
24-26.
Chọn bằng việc bắt thăm : Chính Chúa Yêsu chọn Tông đồ của Ngài.
BÌNH LUẬN
TRÌNH THUẬT
1. Ta thấy
được rằng c.19 không muốn nói cho những người có mặt, nhưng cho độc giả Cv. Vì
thế xưa kia người ta muốn coi như “mạo nhập”. Nhưng c.18 cũng không cần gì cho
những người hiện diện.
Rồi c.20
khó áp dụng cho Yuđa : trại chăn nuôi, thửa đất. Bản Hipri : của chúng nó. Có
tác giả hiểu “trại” cho chức vụ Tông đồ, nhưng như thế thì cấm đặt người thay
thế. Thành thử 20 cũng không hạp hoàn cảnh Falệtin những ngày đầu. Nếu thế thì
c.16 dọn trước lời Kinh thánh cũng thế. C.21-22 giả thiết quá đáng : không phải
mọi Tông đồ đều chứng kiến tất cả sứ vụ Chúa Yêsu từ ngày thanh tẩy.
Kết luận
16-22 không thể giữ lại chính diễn từ của Phêrô trong ngày đặt trong mạch lạc
Cv.
2. Diễn từ
phải coi như công việc trước tác của Luca : xây dựng một trình thuật vì đạo lý
: Vai trò tông đồ trong Hội thánh. Nhưng không phải bịa được. Luca đã thu thập
được nhiều ký ức đáng tin cậy : những chi tiết về việc chọn thêm thành phần
nhóm 12, Matthya đã được chọn chứ không phải Barsabba.
Vai trò
tông đồ trong Cộng đoàn tiên khởi, và trong Hội thánh : Luca nhấn đến điều đặc
sắc nhất : làm chứng về sự Sống lại.
Phải nhớ
đến Chúa Yêsu đã phải giết thế nào (toàn dân bỏ Ngài : như thế Ngài bị loại ra
khỏi cộng đoàn dân của Thiên Chúa. Chết dữ dằn trước 50 tuổi : một án phạt của
Thiên Chúa. Dân cũng như môn đồ kết luận được Thiên Chúa đã chứng tỏ Yêsu
Nazareth là tiên tri giả). Tình trạng éo le của môn đồ : với những kinh nghiệm
quá khứ, họ phải tin; nhưng với kết thúc ở Golgotha : họ không thể nào tin
được. Với sự sống lại, mọi sự đổi hẳn, và vụ kiện phải được khiếu nại, bản án
phải được duyệt lại (ý nghĩa chứng tá tại Yêrusalem).
Nhưng hơn
thế : Sống lại cho thấy Thầy của các môn đồ là người được Thiên Chúa sủng mộ,
tôn dương, họ có Đấng chuyển cầu cho họ bên hữu Thiên Chúa. Ngài hiện ra : mối
liên lạc được tái lập giữa họ và Ngài : nghĩa là Ngài tha thứ tội cho họ, trung
tín với họ dẫu họ đã thất trung, và cuối cùng là lòng trung tín của Thiên Chúa,
ứng nghiệm theo lời Kinh thánh. – Và bởi liên lạc mới này nọ nên “anh em” của
Đấng sống lại, nghĩa là nhờ Ngài họ được đưa vào liên lạc với chính Thiên Chúa,
i.e liên lạc cánh chung với Thiên Chúa đã được thực hiện trong Chúa Yêsu.
Sống lại,
Chúa Yêsu y chuẩn lại sứ mạng Ngài đã trao cho họ, chịu lấy sứ mạng, họ cũng
chịu lấy thông điệp : làm chứng về Chúa Yêsu như Đấng Thiên Chúa sai đến trong
xác phàm, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa cho sống lại và tôn
dương. Sứ vụ tông đồ căn cứ vào Sống lại.
Tín
thư sống lại : là nền tảng của Cộng đoàn mới.
Bởi đó,
Tân ước nhấn mạnh vào việc Chúa đã hiện ra (2Cor 15:3tt). Luca đã nói lên cái
cơ sở của Hội thánh : Tông đồ chứng kiến Sống lại là bảo đảm cho đức tin
của Hội thánh.
3. Chẳng
những Luca đã giữ lại sự kiện lịch sử căn bản : Tông đồ là chứng tá về Chúa
Yêsu chết và sống lại, nhưng cũng còn giữ lại một điều căn bản khác : tổ
chức của Hội thánh, cho dẫu sơ sài lắm, nhưng cũng đã có thật, chứ không
phải nhóm ô hợp, không qui cũ ngây ngất trong ơn của Thánh thần như những người
khởi sáng phong trào Formgeschichte chủ trương.
Xưa kia
người ta coi việc Hội thánh có hàng cầm đầu là một hiện tượng muộn thời. Nhưng
bây giờ với những văn kiện Qumrân, điều đó không còn có thể nhận được. Thí dụ
Cv 1:15-26 này nhan nhản những tiếng xưa kia người ta cho là ép nghĩa, nhưng
nay chúng ta thấy rắc đầu những từ ngữ và ý niệm tương đồng với nhóm “Cộng đoàn
giao ước mới” Qumrân : “phần chức vụ” (c.17), “hàng chức vụ” (c.25) dịch tiếng
hầu như thuận ngữ Qumrân “abodah” và “gôral” với hai nghĩa “phần” và “hàng”,
trong c.25 “chỗ dành riêng” dễ hiểu nếu ta biết đến những đoạn “chúc dữ” cho
những kẻ vào giao ước “không hối cải”. C.20 tiếng “chức vụ” dịch tiếng
“episkopè” : Hipri pequdah, tức là chức vụ của “paqid” (người thanh tra kiểm
soát) hay mebaqqer (quản đốc, tư vụ) của nhóm Qumrân... Nhiều tiếng tuy có sắc
thái Kinh thánh, nhưng lại thông dụng trong nhóm Essêni.
Cách riêng
nhân số tiên khởi 120 : luật Cộng đoàn, giả thiết có những tiểu tổ gồm 10 đạo
hữu và một tư tế làm chủ tịch. Thế thì cộng đoàn tiên khởi đại diện cho toàn
thể Israel, nên mỗi Tông đồ làm đầu 10 người : đại hội cánh chung nhỏ nhất
trong tương chiếu với Cộng đoàn Israel xuất hành khỏi Aicập để chờ đến Kh7,4 là
lý tưởng Tv109:8 được chọn chính vì tiếng “episkhpè” (pequdah) thuộc mạch lạc
tuyển lựa một viên chức quan trọng tức là paqid (sau này sẽ là episkopos của
Hội thánh). Sau cùng trình tự các việc diễn ra trong buổi hội : lễ sách đặc
biệt Dothái : Kinh thánh, chú giải (pesher) và cầu nguyện.
Xét chung
các văn kiện Qumrân và các nhóm bà con thuộc phong trào Essêni : có thể nhận
một nghi thức nhóm Sađóc (dòng tư tế đã chủ trì tại Đền thờ Yêrusalem cho đến
khi bị nhà Hasmônê thay thế). Nghi thức đó đã được Hội thánh sơ thời chịu lấy :
Tông đồ giữ địa vị hàng tư tế của nhóm Qumrân (tuy trong Cộng đoàn có Lêvít
(Barnaba) và tư tế nữa (6:7)). Một nét chứng tỏ vừa có dính líu với môi trường
sinh hoạt, vừa có ý thức về đặc điểm của Hội thánh : có cái gì khác hẳn mà
những qui chế tôn giáo Dothái, hay đạo đức Essêni không thể có gì sẵn : hàm ẩn
sự từ bỏ lễ bái và hàng tư tế cũ. Thay cho tư tế chủ tịch (paqid hay mebaqqer)
những tổ chức Essêni, chúng ta có tông đồ : với quyền giảng dạy, có quyền giải
thích Kinh thánh, và coi sóc Cộng đoàn, duy trì sự toàn vẹn đạo lý, chủ sự các
buổi họp, điều khiển đời sống (trật tự cộng đoàn), thâu nhận trục xuất. Nhưng
cũng có điều Hội thánh tiên khởi không tiếp nhận : việc hàng năm sắp hàng thứ
các thành phần.
Những việc
hội đoàn tín hữu chọn Matthya và Barsabba ra tổ chức khá giống hội đoàn, hay
tổng hội của các nhóm Essêni (môshab harabbim. Nhưng như đã nói không sắp đặt
ngôi thứ theo kiểu các nhóm Biệt phái và Essêni).
Như thế
ngay trong việc tổ chức, chính lòng tin vào sự sống lại và sứ mạng do Chúa sống
lại ban là cơ sở cho Cộng đoàn.
3:1-4:31. Việc chữa
người bất toại và những biến sự do
đó xảy ra. Hai đoạn này nên một khối, các biến cố kê theo nhau diễn ra. Duy
nhất bởi phép lạ là duyên do, nhưng cũng được cắt nghĩa theo nguyên nhân (quyền
năng của tên Chúa Yêsu), và hậu quả (đến lúc làm chứng cho Tên Chúa).
3:1-10.
Phêrô chữa người bất toại
Truyện đơn
giản gần giống như Cv 9:32-35. Có ít điều Luca đã nhấn vào để dọn trước diễn từ
và phiên xử theo sau (có lẽ Yoan thuộc các điều đó, nhưng không chắc gì phải
nói như thế – nhưng có lẽ hơn các lời nói đến Phêrô (chúng nhìn và nói) người
kia luôn luôn ngó hai ngài xin bố thí lại ngó lên lần nữa : một thứ thôi miên!
Không thế, nhưng đó kiểu tả sự đụng chạm linh thiêng chữa lành. Rồi những câu 6
(muốn đặt tương phản giữa nghèo của Tông đồ về vật chất và sự giàu có bởi Tên
Yêsu), c.8b (người bất toại vào Đền thờ cần thiết để dọn diễn từ và khung cảnh
diễn từ).
3:11-26.
Diễn từ của Phêrô
Diễn từ
này sử dụng KERYGMA tiên khởi (coi nhập đề Tin mừng Nhất lãm). Đây chúng ta chỉ
bình luận về vai trò trong mạch lạc Công vụ.
Đề tài của
Kerygma được nối với mạch lạc phép lạ (12 13a), ý nghĩa của lòng tin được cắt
nghĩa hơn (16), chứng Kinh thánh diễn rộng hơn (22t 25b). Kiểu nói long trọng,
nhưng có khi tối nghĩa. Trong diễn từ có những kiểu nói lạ tai theo kiểu văn
chương khải huyền, nên có tác giả cho là một truyền thống về Elya đã được khai
thác theo đạo lý Kitô giáo.
Nhưng đó
chỉ là những suy tưởng, còn văn Luca thì quá rõ.
Tại sao
Luca đã đặt thêm một diễn từ ở đây? (Luca đã đặt vì ta thấy được rằng c.11 là
dây nối!)
Là vì phải
dọn trình tự biến cố : ngay ngày Hiện xuống không lẽ đã để các Tông đồ vào tù.
Biến cố phải tiệm tiến : việc chạm trán với công nghị phải do một trường hợp
khác về việc giảng Chúa Yêsu – diễn từ đó phải nối với một cái gì có thể hiểu
được, Luca đã lợi dụng một ký ức của cộng đoàn để làm nhịp cầu. Và đề tài mới
cũng không cạn : lòng tin Hội thánh về danh Chúa Yêsu : đó là dịp cắt nghĩa cho
độc giả ý nghĩa Danh Chúa Yêsu một cách cụ thể, chứ không phải như một tín điều
trừu tượng.
Nhờ việc
chạm trán với công nghị này, Luca sắp đặt sẵn để dẫn đến những xung đột gay gắt
hơn với bè Sađóc, và do đó đến cấm cách bắt bớ.
Như thế
diễn từ của Phêrô là một đoạn cốt yếu trong hàng các biến cố nhờ đó Luca hoạch
định cho ta một chút gì có liên lạc về hình dung lịch sử Hội thánh tiên khởi,
mà chính Luca chỉ có những ký ức rời rạc.
Ta phải
nhận ra sự khôn khéo của một tác giả biết khai thác ít đề tài hiếm hoi đã thâu
nhận được, tổ chức lại theo kiểu duyên do và hậu quả, và làm câu truyện đầy đủ
ý nghĩa bằng những diễn từ, dựa trên Kerygma tiên khởi, rồi rút chặt với hoàn
cảnh, để quyển sách trở nên một chương thần học cụ thể.
4:1-22.
Tra hỏi trước Công nghị
Trình
thuật đọc lần đầu ta hội chung ra ý tưởng : giam bắt vì lý do là giảng về Chúa
Yêsu sống lại, nên đụng chạm đến lập trường không tin của bè Sađóc. Khi ra
trước công nghị, người ta tra hỏi về quyền làm phép lạ “Nhân Danh nào?”. Phêrô
tuyên bố lập trường : Danh Chúa Yêsu (nên để ý đến tự nguyên ngấm ngầm :
Yêsu-Salvator; và lời hai ý trong tiếng Sôtêria : salus (lành bịnh, ơn cứu
thoát) : chỗ này chúng ta lại gặp Kerygma tiên khởi. Rồi đến sự lúng túng của
công nghị. Biện pháp : ngăm đe, cấm giảng tên Chúa Yêsu. Lời tuyên bố của Phêrô
(nên để ý rằng lời tuyên bố như thế có gặp thấy trong Platô (Apologia 29D : Tôi
kính phục và có thiện cảm nhiều với các ông, nhưng tôi sẽ vâng phục thần linh
hơn là các ông; Sophokles, Antigone 449tt, Josephus, Antiquitates VI 12 6 cũng
có những tư tưởng giống như thế). Rồi Phêrô và Yoan được tha : vì không có lý
do để trừng trị – và vì sợ dân.
Nhìn kỹ
hơn, chúng ta gặp ít nhiều điều không xuôi :
c.4 : số 5
ngàn đàn ông. Nếu còn đàn bà và trẻ con thì con số lớn thật đối với Yêrusalem
(chừng 25/30 ngàn).
c.1 bè
Sađóc bắt bớ vì họ không tin có sống lại. Thế thì Biệt phái cũng tin có sống
lại thì sao? Vả lại ảnh hưởng Biệt phái rất lớn trong Công nghị, tuy rằng
thượng tế chủ sự công nghị. Đàng khác bè Sađóc không phải là “quyền hành” trong
dân.
c.7 Tra
hỏi không còn nói đến Sống lại, nhưng đến quyền làm phép lạ. Và lời hỏi đó rõ
ràng là chủ đề cho lời lẽ của Phêrô.
c.13 Cũng
lạ là danh tính bị cấm mãi đến đây mới tỏ.
c.17 Phép
lạ nhân Danh Chúa Yêsu đã được nghe biết khắp thành, lại còn cấm việc nói đến
tên ấy nữa.
c.20-21 Bị
cáo nhất định không tuân lịnh, Công nghị lại chỉ ngăm đe thôi. Họ sợ dân chúng,
trong khi giữa dân bồng bột phấn khởi, lính đền thờ đã có thể bắt các tông đồ
êm ru.
Vậy phải
nhận rằng : trình thuật là sáng tác của Luca làm một trình thuật đạo đức cho
cộng đoàn, chứ không phải là đã muốn doãn lại đầu đuôi mọi sự theo lịch sử.
Vậy nên để
ý rằng việc bắt giam không xảy ra ngay sau phép lạ, nhưng sau diễn từ. Diễn từ
lại hàn với phép lạ cách gượng gạo. Vậy phép lạ là một truyện riêng biệt. Việc
bắt giam là nhân việc rao giảng Chúa sống lại, tị tổ của đàng sống. Và cuối
trình thuật lại có việc cấm rao giảng nhân danh “người đó”. Luca dựa vào việc
chữa lành để vạch ra quyền năng cứu rỗi của Danh Chúa Yêsu (chuyển ý nghĩa sự
an lành phần xác đến phúc lành phần hồn). Rồi lại chuyển tự việc nói nhân Danh
đó của phép lạ qua “rao giảng nhân Danh đó” để nói đến “quyền và phận sự rao
giảng Chúa Yêsu”.
Vậy công
việc soạn tác khá rõ. Và việc trình bày phiên tra hỏi trước công nghị là một
bức họa khéo léo của Luca cốt trình bày một nét chung Hội thánh sơ thời : quyền
và phận sự rao giảng Chúa Kitô đã được các tông đồ thi hành thế nào, làm sao
các tông đồ, những người vô học thức mà nhờ ơn trên phù hộ, đã ngang nhiên làm
chứng, không nao núng trước sức mạnh người đời, trước tù ngục và sự cấm đoán
của chức quyền.
Còn lịch
sử thì sao? Chắc có xung đột giữa các tông đồ, Hội thánh Yêrusalem và quyền
hành Dothái nhân việc loan báo Chúa sống lại, thì như thế tức là lên án hành vi
của họ trong vụ án Chúa Yêsu. Đó là phủ nhận tính cách hợp pháp của tòa án
Dothái cũng như của người Rôma. Nhưng để khỏi đụng chạm với đế quốc, để cho
thấy sự liên tục giữa Israel và Hội thánh, Luca xét đến khía cạnh riêng của
quyền lĩnh đạo can trực tiếp vào việc lên án Chúa Yêsu : Bè Sađóc, những kẻ
không tin vào sự sống lại. Nhưng kỳ thực Hội thánh bị rắc rối nhiều do nhóm
biệt phái (coi Mt 23:13tt Lc 11:39-53 20:45-47) – rồi việc cấm cách dưới thời
Agrippa, và thái độ Phaolô.
4:23-31.
Lời cầu nguyện của Cộng đoàn
Coi BVC 14 (1956)
82-90 A.Hamman : Lanouvelle Pentecôte.
LMD (la
Maison-Dieu) 51 (1957) 99-115 D.Rimaud sj. Lapre-miere prière liturgique dans
le Livre des Actes (Ac 4:23-31) (Ps 2 et 145).
Nếu ta bỏ
ngoài kiểu thuật bình dân, theo kiểu dàn cảnh, và bỏ ngoài cái tưởng tượng của
ta về một phóng viên viết chương phóng sự, thì khúc này giữ lại cho chúng ta
kiểu cầu nguyện và suy nghĩ thần học của Hội thánh tiên khởi : lời cầu nguyện
dựa theo kiểu cầu nguyện của Dothái, theo những kinh Cựu ước (thánh vịnh 2 và
các Ca vịnh Qumrân). Kitô học đây còn dùng những tước cựu trào.
Ý định của
Luca : Cho thấy cách sống động tín hữu phải cư xử làm sao khi bị cấm cách :
ngước mắt lên Thiên Chúa – nhìn biết cấm cách không phải là chứng Thiên Chúa
phủ nhận nhưng là mọi sự đã được quan phòng – cầu nguyện không phải để tránh
cấm cách, nhưng để ý định Thiên Chúa thực hiện với lòng can đảm cùng quyền phép
Người tỏ bày ra.
5:17-42.
Các Tông đồ trước Công nghị
Trình
thuật này gợi lên 3 vấn đề :
1) Chung
chung có phần trùng với đoạn 4:1-22.
Có thể so
sánh :
3:1-11 / 5:15-16 : Những phép lạ chữa lành
3:12-26
/ 5:17-21a : Giảng trong Đền thờ
4:1-4
/ 5:21b-26 : Bị bắt
4:5-7
/ 5:27-28 : Ra trước Công nghị.
4:8-14
/ 5:29-33 : Phêrô biện hộ.
4:15-16
/ 5:34-39a : Công nghị bàn kín
4:17-20
/ 5:39b-40a : Tuyên án
4:21-22
/ 5:40b... : Các tông đồ được thả.
Các tác giả xưa (Harnack, Preuschen,
Wellhausen Wendt, và cả nay : Reicke) coi như hai trình thuật trùng nhau để tả
cũng một biến cố, và bởi đó mà họ hội ra 2 văn kiện khác nhau đã được Luca sử
dụng.
J. Jeremias, khai thác một
ý kiến của K. Bornhauser, minh chứng rằng giữa 2 trình thuật có tiến triển : 2
bên bổ túc cho nhau : Luật Dothái không cho phép phạt tội vi phạm Lề luật khi
người có tội không nhận định được những hậu quả của việc mình. Thực tế ra, việc
hạch tội ngay chỉ có thể thi hành cho những ai đã học luật các rabbi; dân
thường thì phải có lời cảnh cáo trước chứng nhân, rồi khi tái phạm mới bị trừng
trị. Đoạn 4 : Công nghị coi các Tông đồ như hạng vô học thức, bởi đó kết thúc
vụ án bằng lời cảnh cáo ngăm đe. 5:28 rõ ràng nhắc lại lời cảnh cáo đó và vì
thế có thể lên án đánh trượng được.
Nhưng trình thuật cho thấy
Luca không rành luật lệ Dothái, vì thế không hoàn toàn phù hợp với thủ tục tòa
án Dothái như Jeremias đã vạch ra, kiểu giải thích của Jeremias có thể nhằm với
hình thức cựu trào của truyện trước khi Luca sử dụng : hai lần ra trước công
nghị là 2 giai đoạn của cũng một vụ kiện theo thủ tục Dothái.
2) Vấn đề thoát ngục cách
lạ lùng (5:19-25). Trong Cv chúng ta thấy chủ đề được dùng đến 3 lần (5:19
12:6-11 16:26t): đêm khuya cửa ngục được mở toang ra cách lạ lùng.
Chủ đề tự dưng mở toang ra
là một chủ đề phổ thông trong nhiều vùng; trong thế giới Hilạp : chủ đề thuộc
kỳ truyền về Dionysos (Bacchus) và sử hạnh những nhân vật cổ thời.
Trong Cv, sự lạ đó được
chia đều giữa các tông đồ (5:19), Phêrô (12:6-11) Phaolô (16:26t) rồi lại phù
chi tiết với những truyện tương tợ, nên phải nói rằng ít ra trong việc thành
hình cho trình thuật Luca đã sử dụng đề tài định sẵn, nhất là trong sử hạnh các
nhân vật thần thiêng, nhất là việc thoát tù lạ lùng lại chứng thực cho sứ mạng
siêu phàm.
Vậy phải nói Luca sử dụng
đề tài có sẵn để nói lên điều này : Tin mừng lan truyền ra không bị tù ngục,
xiềng xích cầm hãm được, vì Thiên Chúa quyền năng đủ để bật tung cả tù ngục.
3) Vấn đề “Theudas”.
Gamaliel nêu hai gương lịch sử để mời Công nghị kiên nhẫn. Gương thứ nhất là nố
Theudas. Gamaliel đây nói đến Theudas như sống trước vụ Yuđa người Galilê dấy
loạn thời Quirinius kiểm tra nhân khẩu Falệtin (năm 6). Theo Flavius Josephus
thì việc đã xảy ra dưới thời trấn thủ Cuspius Fadus (Coi Abel, Histoire de la
Palestine, I,455) : một tên lưu manh tự xưng là tiên tri, tụ tập đồ đảng và dẫn
họ đến bờ sông Yorđan và hứa sẽ rẽ nước sông cho họ qua. Fadus sai kị binh đi
dẹp, giết nhiều người, cầm tù một số, và đem thủ cấp của Theudas về Yêrusalem.
Cuspius Fadus làm trấn thủ 44-46. Còn hoàn cảnh trong đó Luca đặt các lời của
Gamaliel thuộc các năm 33-34. Tất nhiên 2 nguồn tin không thể giảng hòa với
nhau. Tuy rằng F.Josephus nhiều khi lầm lẫn, và mâu thuẫn với chính mình, về
vấn đề này các nhà bình luận cho kiểu trình bày Cv sai.
Và như thế diễn từ của
Gamaliel là soạn tác của Luca, theo những điều biết mập mờ về tình hình
Falệtin.
Do những nhận xét ở trên,
chúng ta lại phải nói một lần nữa : trình thuật của Luca không có tham vọng làm
một chương sử rành mạch, nhưng đã thâu nhận những ký ức rời rạc của cộng đoàn
mà tạo nên một bức họa hào hứng có tính cách đạo đức làm phấn khởi tín hữu thời
mình trong cơn cấm cách. Và một trật nơi miệng Gamaliel, nói lên ước nguyện của
Hội thánh được tự do hành đạo.
Về các tông đồ, đọc thêm :
LCerfaux, La Communauté apostolique, 24-38.
No comments:
Post a Comment