Chương II
Kinh nghiệm về niềm tin
và mô-hình bậc cha-chú
(bài 9)
Phần I
Ánh sáng niềm tin trong tối tăm
Về
niềm tin, hẳn có người lại sẽ đặt câu hỏi: “Đâu
là tầm-kích về niềm tin vào Thiên-Chúa?” Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo cũng
từng nói: “Niềm tin là sự đáp-trả cách tự-do
của con người, với sáng-kiến của Thiên Chúa là Đấng mặc-khải cho ta biết. Mặc-khải đây, có nghĩa làm sáng-tỏ, khai-sáng
hiểu biết của ta”.
Nhưng,
sáng-kiến là sáng những ý-kiến gì? Mặc-khải, là mặc lấy những điều gì đây?
Hồi
thời trước, các sách thần-học thường đề-cập đến sự khác-biệt giữa điều mà tiếng
La-tinh khi đó có khác biệt, gọi là: “Fides
quae creditur” và “Fides qua
creditor”, tức: “Tin, những gì ta
tin” và “Niềm tin, qua đó ta tin”.
Khác biệt này, lúc ấy, được gán cho tác giả là thánh Augustinô. Trong khi đó,
thánh Tôma Akinô lại cũng viết về việc “Tin Chúa” và “Tin vào Chúa” hệt một kiểu
như “Tin ở nơi Chúa”. Quan niệm ấy, được các thần-học-gia Thệ-Phản sử-dụng nhiều
mãi cho đến thế kỷ thứ 17. Khi ấy, sách giáo-lý của các nhà thần-học dẫn về hai
chiều-hướng rất tách-biệt, một: là truyền-thống có khuynh-hướng thuận, như: “Tin, những gì ta đang tin”, và khuynh-hướng
kia, là: “Niềm Tin, qua đó ta tin”, tức:
tin Chúa và tin vào Lời hằng sống của Ngài. Thế nhưng, điều này từng đóng khép,
lại đã không cho phép ta tiếp-cận quan-điểm sâu sắc vẫn bảo rằng: đối-tượng của
động tác tin, thật ra là “Có Chúa trong Tình-yêu cùng với ta, vẫn rất thật.” Và,
điều đó có khuynh-hướng làm giảm-suy động-tác “tin” theo cách-thế chủ-động thành thứ nghiên-cứu tâm-lý thường-tình
của một niềm tin cũng rất thường, lại để quên mất tính-chất đặc-trưng/đặc-biệt
của động-tác “tin” rất thần thánh,
theo cung cách chủ-động, rất tâm-lý. Tầm-kích của niềm “tin thần-thánh”, là tin
vào Chúa, với tôi, xem ra như thể để dung-hoà và có khi còn đổi thay tầm-kích
nhân-bản và tâm-lý của niềm tin, hoặc như thế.
Tối tăm ở niềm tin
Mục
đích của những giòng chiêm-niệm này, là để đào sâu thêm những gì được gọi là
“ánh sáng” đức tin.
Đề
cập chuyện này, cũng có nhiều phương-án, rất khác nhau. Nhưng, trước khi đi vào
từng phương-án một, tôi nghĩ: bà con mình cũng nên xác-quyết lại lập-trường riêng
tư, theo cách tổng-thể. Đa số truyền-thống thần-học có chủ-trương rỡ bỏ niềm
tin khỏi bất cứ loại-hình nào mang tính “hiểu biết”, mà ta thường gọi là “ánh sáng
đức tin”, ngõ hầu biến nó thành động-tác tin-tưởng vào thứ tối-tăm của vô-tri/vô-giác,
tức không-hiểu-và-cũng-không-biết, vẫn thường thấy. Một số vị cùng lúc, cũng đồng-thuận
với lập-trường trên, lại biến nó thành động-thái của một tín-nhiệm và đặc biệt
của tình thương-yêu vào với “Đấng Nào Đó” gìn giữ họ -tức: những người tin tưởng
thật an-toàn ở trong cõi tối-tăm của sự sống đang gia-tăng -và thật ra, cũng giống
như đang ở trong cõi tối-tăm của sự chết. Các vị ấy đều đồng ý bảo rằng: “tin”,
là sự thể cảm-xúc có trực-giác, một thứ trực-giác có hỗ trợ tương-tác không thất-bại
ở trong tăm tối, mà lại không có thêm quà tặng “nhận xét”, nữa.
Mới đây, trong một hội-thảo
được tổ chức tại Đại học Yale năm 2012 để vinh danh tác-giả Denys Turner từng
khai-triển chọn lựa này, rất thành công. Đây là phương-án huyền-bí khá tiêu-cực
về niềm tin vào Đức Chúa.
Hôm
nay, tôi xin báo trước, là: tôi sẽ theo khuynh-hướng nào, khi nghiên cứu về vấn
đề này.
Ở đây có điểm-nhấn về tâm-não người Thệ Phản
Trước
khi có cái nhìn thực-tế rất tích-cực về “tin”,
tôi xin nhấn mạnh đến chiều sâu của lập-trường tiêu-cực lấy tối tăm làm chủ
đích. Rõ ràng là: trong các “hiểu” và “biết” về thánh Phaolô cách đặc-trưng của
người Thệ Phản theo hệ-phái Luther, tức: đặt niềm tin một cách biệt-lập, vv..
Trước
nhất, là: xoay quanh vai trò của những đề nghị, cam kết, tín điều và động-tác “tin” nào phát tự tâm can. “Tin”, như thế có điểm-tới dẫn về với Chúa,
nhưng là Đức Chúa “trong” công-thức hạn hẹp. Ở đây, những khác-biệt như thế lại
đã bắt đầu. Truyền-thống của giáo-phái Thệ-Phản những nhấn mạnh rằng: Thiên
Chúa không hề và không thể “bị giam nhốt” trong bất cứ phát-biểu nào, dù ta có theo
hệ-thống con người hay không. Truyền thống ấy, là thói quen tôn-trọng Lời Chúa
hơn bất cứ thế-giới nào, của con người. Nguồn-gốc của những thứ này, là sự “hiểu
biết” rất triết lý –thật ra, ta không thể có phép “loại-suy”/tương-đồng nào giữa
Thiên Chúa và tạo-vật hữu-hạn được. Ngược lại, nói thế sẽ chỉ dẫn đưa mình vào
chốn mơ-hồ lẫn-lộn, tự bản chất, mà thôi. “Loại suy”/tương đồng ở đây, có nghĩa
là: sự khác-biệt căn-bản giữa các sự việc được so sánh; trong khi đó, lại có thứ
“loại-suy”/tương-đồng hoặc tương-tự ở tầm-kích đích-thực nào khác. Trái lại,
thái-độ của người Công giáo chúng ta, lúc nào cũng mang hình-thức “loại-suy”/tương
tự về niềm tin bên trong các khác biệt giữa Thượng-Đế-là-Đấng-vô-hạn và con-người-hữu-hạn,
luôn có sự tương-đồng/tương-tự giữa hai yếu-tố đó. Nói về “loại suy”/tương đồng
như thế, Thiên Chúa-là-Đấng-vô-hạn, ta có thể sờ chạm và nhận biết được trong
đó, tức: bên trong tạo vật hữu-hạn. Lời Chúa, là thực-tại không thể bị pha-loãng/chế
biến ở trong và tận sâu bên trong lời của phàm-nhân, rất tục trần.
Khác
biệt này, xuất tự động-thái của người Thệ Phản cứ nhấn mạnh nhiều đến tính-chất
“biệt-lập” của niềm tin. “Tin” biệt lập,
ân-huệ biệt-lập, Kinh Sách “biệt-lập”, Đức Kitô Biệt Lập, Vinh danh Chúa cách
biệt lập, riêng rẽ, vv... đương nhiên ở đây luôn có sự tôn kính sự hiện-diện của
Đấng-Thánh-Không-Ai-Biết –và sự tôn
kính/tôn sùng ấy thực sự được gọi là tình thương-yêu Đức Chúa, hoặc ít ra cũng
đòi hỏi được phong-bao gói ghém thật kỹ-luỡng. “Tin”, thực ra là bản-chất mù-quáng của tình thương-yêu ấy. Và, toàn
bộ nền thần-học từng biện minh niềm tin, cũng xuất tự nơi đó.
Tôi
thiển nghĩ, cũng tự nơi đây, ta mới thấy được là: Niềm tin, Hy vọng và Bác ái
có khuynh-hướng trỗi dậy đi vào tình-huống duy chỉ có mỗi kinh-nghiệm siêu-thăng,
thôi. Tôi lại cũng nghĩ, rằng: đằng sau khuynh-hướng của phía Thệ-Phản là họ muốn
biện-hộ cho tương quan ta vẫn có đối với Đức Giêsu, như một người. Xem ra, làm
thế nhiều lúc cũng để miễn-chuẩn khỏi phải nhìn gần nhìn thật sát vào phẩm-chất
và nhu-liệu thiết-lập nên tương quan tư-riêng ấy.
Tin và hiểu biết thật bất nhất
Điều
này dẫn ta đến, và thực sự là lịch sử cho thấy nó đã dẫn đưa ta đồng-hoá niềm
tin vào với chấp-nhận một “hiểu biết” thật bất-nhất khi ta khẳng định về niềm
tin. Nói nôm na, thì: những khẳng-định này được phép xuất hiện như thứ gì đó mâu-thuẫn
tự bản-chất và việc chấp-nhận cách mù quáng mối mâu thuẫn như thế, lại được coi
như đặc trưng/đặc điểm của niềm tin-yêu đích thật.
Động
thái tương-tự, trải rộng cả vào việc chấp-nhận “quyền bính về niềm tin” trong
các vấn đề về “tin” khi quyền-bính ấy
không hiện rõ như thứ gì đó khả dĩ khiến ta có thể tin tưởng được. Như thế, đã
khiến cho niềm tin của ta ít thành động-tác trí-tuệ, ít ra là khi trí-tuệ được
coi như thế. Nhiều lúc, việc này còn dẫn đến vị-thế ở trên/dưới của hệ-cấp cầm
quyền trong Giáo hội, được gồm tóm trong sự việc như thể bảo rằng: “Tôi đã nói là đã nói, xin đừng hỏi tôi như thế
có nghĩa gì, mà làm gì.”
(còn
tiếp)
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment