Bài Tin
Mừng hôm nay chia thành hai phần có liên hệ chặt chẽ với nhau: ( 1 ) Thỉnh vấn
về điều răn trọng nhất ( Lc 10, 25 – 28 ); và ( 2 ) Dụ ngôn người Samari nhân
hậu ( cc. 29 – 37 ).
1. Thỉnh vấn về điều răn trọng nhất ( cc. 25
– 28 )
Câu hỏi
của người thông luật là một trong những câu hỏi trung tâm của các tôn giáo: làm
thế nào để được sự sống đời đời ? Đây không chỉ là một “nố” được đặt ra để
tranh luận, mà thực sự là một nỗi niềm khắc khoải trong tâm tư con người.
Đối diện
với lời thỉnh vấn của người Thông Luật, theo kiểu tiến hành thảo luận của các
thầy Rabbi, Đức Giêsu đặt một câu hỏi cho người đến thỉnh vấn: “Trong Luật
đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” Bằng cách làm như thế, Đức Giêsu đặt mình
vào vị thế của vị tôn sư, chủ động dẫn dắt cuộc thảo luận. Điều đáng ngạc nhiên
ở đây là Người đã không đưa ra một lời kêu gọi người đối thoại hối cải, cũng
không công bố rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần, nhưng lại hỏi người đến thỉnh
vấn về điều đã được viết trong Luật Môsê.
Người
Thông Luật trả lời bằng cách trích dẫn Đnl 6, 5 và Lv 19, 18: “Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và
hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” .
Người
Thông Luật hiểu điều răn ấy như thế nào ? “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi…”, nghĩa là gì ? Trong thần học Đệ Nhị Luật, lệnh
truyền này được đặt trong khung cảnh giao ước giữa Thiên Chúa với dân, và vì
thế, được hiểu như là lệnh truyền người ta phải trung thành thực hiện những đòi
buộc của giao ước đó. Và như thế, tình yêu mến đối với Thiên Chúa bao hàm lòng
tin tưởng và tuân phục hoàn toàn đối với ý muốn của Thiên Chúa. Người yêu mến
Thiên Chúa sẽ vâng phục ý muốn của Người “hết lòng, hết linh hồn, hết sức
lực, và hết trí khôn” tức là với toàn vẹn con người mình trong hiện hữu,
trong ước muốn, trong suy nghĩ và trong hành động. “Và ngươi phải yêu mến
người thân cận như chính mình”.
Người thân
cận trước hết là người ở gần mình, tức là thành viên của Dân được tuyển chọn,
người anh em trong lòng tin vào Thiên Chúa. Người thân cận cũng có nghĩa là bạn
bè thân hữu. Rồi theo Đnl 10, 19 khái niệm người thân cận được mở rộng bao hàm
cả những ngoại kiều cư ngụ trong xứ Palestina. Để được sự sống đời đời làm cơ
nghiệp, người ta phải yêu mến tất cả những người thân cận đó như chính mình.
Trong các
sách Tin Mừng theo Thánh Mátthêu và Máccô, hai điều răn mến Chúa và yêu
người trước tiên được nêu tách rời nhau,
sau đó mới được nối kết với nhau. Trong câu trả lời của người thông luật trong Tin
Mừng theo Thánh Luca, hai điều răn quan trọng ấy được nối kết trong một câu duy
nhất, cho thấy tính cách không thể tách lìa giữa hai điều răn này. Đàng khác,
nếu tình yêu đối với Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong tình yêu
đối với người thân cận thì có nghĩa là chúng ta đang đứng trước vị Thiên Chúa
không quy chiếu về chính mình Người, mà là Đấng tỏ mình ra trong quy chiếu về
sự thiện hảo dành cho con người.
Khi hai
điều răn quan trọng nhất được nối kết chặt chẽ với nhau như thế, thì tôn giáo
của hai điều răn này phải được đưa ra khỏi đền thờ để đi vào cuộc sống thường
nhật hàng ngày. Đạo phải là thực tại sống hàng ngày được diễn tiến dưới ánh
nhìn của Thiên Chúa, và con người ta không còn được phép dừng lại trên sự phân
biệt giả tạo giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa và những thái độ của họ
trong đời sống cộng đồng và xã hội.
Đức Giêsu
không phủ nhận câu trả lời của người Thông Luật. Người nói với ông ta: “Ông
trả lời đúng lắm”. Nhưng Người lập tức thêm: “Cứ làm như vậy là sẽ được
sống”. Người đòi hỏi ông phải đi ra khỏi tháp ngà của những hiểu biết cao
siêu để nhập thế vào cuộc đời cụ thể, bởi lẽ chỉ trong cái cụ thể của cuộc
sống, người ta mới chứng tỏ những điều hiểu biết của mình là xác thực, và chính
việc thực hành lòng yêu mến mới đem lại cho người ta sự sống đích thật.
2. Dụ ngôn người Samari nhân hậu ( cc. 29 – 37 )
“Nhưng
người thông luật muốn chứng tỏ là mình có lý, nên thưa cùng Đức Giêsu rằng:
"Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” ( c. 29 ).
Đức Giêsu
đã không hề nói rằng người thông luật không có lý. Tại sao ông lại muốn chứng
tỏ mình có lý ? Có người nghĩ ông muốn Đức Giêsu hiểu rằng câu hỏi mà ông nêu
ra cho Đức Giêsu ở đầu cuộc đối thoại là một đề tài đáng giá và ông chờ đợi một
diễn từ sâu sắc về vấn đề đó. Người khác thì nghĩ rằng ông muốn “chữa mình” vì
đã từng có ý định thử trình độ Đức Giêsu khi ông đến đặt câu hỏi… Thực ra, lý
do khiến người thông luật muốn chứng tỏ mình có lý không quan trọng đối với
chúng ta. Nhưng câu hỏi của ông đã là cơ hội để tác giả Luca dẫn vào một dụ
ngôn có giá trị đưa ra lời giải thích của Kitô giáo về điều răn được nói trong câu
Lv 19, 18.
Vì nhiều
lý do, một số người đã cố cất công tìm xem thoạt kỳ thuỷ, khi kể dụ ngôn này,
Đức Giêsu muốn nhấn mạnh điều gì. Có người nghĩ Người muốn dạy rằng lòng trắc
ẩn có giá trị cao hơn nhiều so với việc phụng tự. Người khác nghĩ rằng Đức
Giêsu có ý cho thấy những người bị gạt ra bên ngoài các hệ thống tôn giáo vẫn
có thể yêu mến và thi hành thánh ý Thiên Chúa cách hoàn hảo, có khi hoàn hảo hơn
những người ở trong hệ thống. Có người nói rằng Đức Giêsu muốn chống lại những
sự kỳ thị dựa trên yếu tố tôn giáo, xã hội và chủng tộc. Có người bảo đây là dụ
ngôn được kể trong không khí tranh luận chống lại tầng lớp tư tế, hoặc không
khí phê phán tôn giáo Do Thái vốn luôn tìm cách tách mình khỏi phần còn lại của
thế giới loài người, hoặc không khí tranh luận về tương quan giữa những người
Do Thái với lương dân…
Trong tình
trạng hiện thời, được nối với cuộc thỉnh vấn về điều răn trọng nhất, dụ ngôn
này đã được tác giả Luca sử dụng như một câu chuyện minh hoạ, mô tả thái độ
gương mẫu mà người nghe được mời gọi thực hiện theo.
Câu chuyện
có khung cảnh là đoạn đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dài khoảng 27km, với
sự chênh lệch về độ cao vào khoảng 1.000m ( Giêrusalem nằm ở độ cao 750m trên
mặt biển, còn Giêrikhô thấp hơn mặt biển 250m ). Đó là đoạn đường rất nguy hiểm
với khách bộ hành, thường xuyên xuất hiện những toán cướp hung hãn. Vậy, “có
một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp.
Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa
chết” ( cc. 29 – 30 ).
“Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy
người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ
ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi” ( cc. 31 – 32 ). Cả hai người này
đều thuộc về những nhóm có những vai trò quan trọng trong sinh hoạt tại Đền
Thờ. Tại sao họ lại tránh qua một bên mà đi khi thấy nạn nhân nằm bên vệ đường
như thế ? Nói chung, câu trả lời thường được đưa ra là vì các lý do liên quan
đến sự thanh sạch theo nghi tiết ( x. Lv 21, 1tt; Ds 19, 11 ), theo đó, thầy tư
tế và thầy Lêvi không dám đụng đến nạn nhân đang nằm bên vệ đường vì nghĩ rằng
anh ta đã chết hoặc sợ rằng anh ta sẽ chết trên đường đem đến nhà trọ. Và họ đã
bỏ đi.
Nhân vật
thứ ba xuất hiện. Bình thường, người nghe chờ đợi sự xuất hiện một giáo dân Do
Thái, nhất là khi hiểu câu chuyện theo hướng bài giáo sĩ. Nhưng, thật thú vị,
nhân vật thứ ba lại là một người… Samari: “Một người Samari kia đi đường,
tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương” ( c. 33 ). Nhân
vật sẽ trở thành mẫu mực trong thực tế không phải là một người thuộc hàng những
tín hữu ưu tuyển của Do Thái giáo, mà lại là một anh chàng người Samari, bị
ghét bỏ, bị coi là lạc đạo, bị coi là tội lỗi. Đàng khác, khi chọn nhân vật này
làm mẫu mực, Đức Giêsu ngầm cho thấy tất cả những lý do tôn giáo và chủng tộc
không còn giá trị nữa. Đây là một con người nhìn thấy một con người đang gặp
hoạn nạn, vượt khỏi những sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay quốc gia.
Động từ
quan trọng trong câu là động từ “chạnh lòng thương” ( spagchnizesthai ).
Trong Kinh Thánh động từ này được sử dụng để nói về lòng chạnh thương của Thiên
Chúa đối với những con người nghèo khổ, yếu đuối. Đó cũng chính là thái độ của
Đức Giêsu đối với những con người khốn khổ bần cùng cần được giúp đỡ ( xem thí
dụ: Mc 1, 41; 6, 34; 8, 2; Lc 7, 13; 15, 20 ). Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà
nhiều Giáo Phụ hiểu rằng người Samari nhân hậu này là hình ảnh của chính Chúa
Kitô.
Người Samari “lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho
người ấy và băng bó lại, rồi đặt người
ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai
quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có
tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” ( cc. 34 – 35 ). Hành động của
người Samari là một gương mẫu tuyệt vời trả lời cho câu hỏi “Tôi phải làm gì ?”
( c. 25 ). Ông đã hành động không phải vì ý thức mạnh mẽ về những lý do siêu
nhiên hoặc về việc phải tuân giữ các giới răn. Nhưng ngay nơi cách hành xử đậm
chất người như thế, ông đã làm cho cách hành xử của Thiên Chúa nhập thể vào thế
giới và ông đã sống điểm cốt yếu của Luật.
Người
Thông Luật đã hỏi rằng “Ai là người thân cận của tôi ?” ( c. 29 ), tức là theo
Luật, tôi phải yêu ai ? Nhưng khi kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu lại hỏi ông ta: “Vậy
theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị
rơi vào tay kẻ cướp ?” ( c. 36 ), tức là ai là người đã thực hành lòng yêu
mến ? “Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương
xót đối với người ấy. " Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng
hãy làm như vậy” ( c. 37 ).
Gợi
ý suy niệm:
1. Nhiều
Giáo Phụ và một số nhà chú giải hiện nay hiểu rằng cách hành xử của người
Samari trong dụ ngôn phản ánh cách hành xử của chính Chúa Giêsu, và rằng thoạt
kỳ thuỷ dụ ngôn này đã được kể như là một câu trả lời cho những người phê phán
sự gần gũi của Chúa Giêsu với những kẻ tội lỗi. Hiểu theo nghĩa này, người bị
quân cướp đánh trọng thương và vứt bên đường chính là hình ảnh của những người
tội lỗi. Chúng ta thấy mình trong hình ảnh người ấy, và được mời gọi tạ ơn Chúa
Giêsu vì đã được trở nên “người thân cận” với Chúa Giêsu.
2. Trong ngữ
cảnh cuộc đối thoại với người thông luật về phạm trù “người thân cận”, điểm
nhấn ban đầu của dụ ngôn về căn bản được đặt trên sự đối nghịch giữa hai hạng
người: một bên là hai thành viên của những lớp người có vai vế trong dân thánh,
và do đó, thuộc về số những “người thân cận” theo quan điểm Do Thái; và bên kia
là một người Samari bị khinh ghét, bị loại trừ và vì thế, bị coi là không thuộc
vào số những kẻ đáng được người ta yêu mến như Luật đòi hỏi. Từ sự đặt đối
nghịch hai hạng người đó, Chúa Giêsu lật nhào quan điểm của người Do Thái về
“người thân cận”. Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta là Thiên Chúa
của lòng trắc ẩn đối với con người tội lỗi. Khi người ta sống theo sự chạnh
lòng thương của Người, thì người ta trở nên đáng kính trọng và yêu mến, chứ
không phải vì người ta thuộc về một tập hợp được xác định bằng các tiêu chí
chủng tộc, xã hội hay văn hoá.
3. Dụ ngôn
người Samari nhân hậu đã được lưu truyền trong Hội Thánh tiên khởi như là một
lời dạy dành cho các tín hữu trong cộng đoàn: hình ảnh người Samari nhân hậu
này được trình bày như một gương mẫu, và dụ ngôn trong bài Tin Mừng trở thành
một lời mời gọi các Kitô hữu hãy thực hành lòng yêu mến như người Samari nhân
hậu đã làm. Theo nghĩa này, dụ ngôn này trình bày cách hiểu của Hội Thánh Chúa
Kitô về luật yêu thương người thân cận được nói trong Lv 19,18.
4. Dụ ngôn
người Samari nhân hậu cũng nói với chúng ta về chủ đề ơn cứu độ. Người ta đạt
thấu ơn cứu độ không phải nhờ một vài hoạt động sùng kính riêng tư, nhưng là
bằng cách thực hiện trong thực tiễn những đòi hỏi cụ thể của tình yêu mến đầy
lòng trắc ẩn đối với người khác, nhất là với những người nghèo khổ, bị áp bức
và cô thế cô thân. Các Kitô hữu, nhất là các vị thừa sai, phải luôn biết nhạy
cảm trước cảnh nghèo của thế giới và các vấn đề xã hội trầm trọng đang làm cho
nhân loại phải âu lo. Mọi thứ nghèo khổ ( vật chất, tinh thần, tâm linh ) đều
mời gọi lòng nhiệt thành tông đồ của chúng ta. Khát vọng chính đáng của người
nghèo cũng sẽ là khát vọng chính đáng của chúng ta. Đó là con đường cứu độ dành
cho chúng ta, chứ không phải những cách giữ đạo hình thức và giả trá.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT
No comments:
Post a Comment