Lm Nguyễn Thể Hiện DCCT
Bài Tin
Mừng tường thuật một sự kiện đặc biệt: Đức Giêsu sai 72 Môn Đồ đi rao giảng.
Tác giả
Tin Mừng dùng những kiểu nói long trọng để trình bày sự kiện sai đi. Đức Giêsu
hiện diện trong tư cách quân vương Mêsia. Người “chỉ định” và “sai đi” những đồ
đệ mà người đã tuyển chọn, và họ sẽ lên đường trong tư cách là những sứ giả đi
trước Người, đến những nơi mà chính Người sẽ đến. Nhiệm vụ của họ không phải là
chuẩn bị một chỗ nghỉ chân cho Người, mà là chuẩn bị cho biến cố Đức Chúa đến
trong Nước của Người, vì họ đi trước là để công bố với người ta rằng “Triều
đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” ( c. 9 ).
Các thủ bản dị biệt nhau về con số các đồ đệ được sai đi. Có bản viết
70. Có bản viết 72. Nhưng điều quan trọng là giá trị biểu tượng của con số: quy
chiếu về thực tại nào ? Có hai khả năng chính. ( 1 ) Chi tiết này được hiểu
theo nghĩa ám chỉ St 10 về danh sách các dân hậu duệ của ông Nôê, gồm 70 dân
tộc ( theo bản Hípri ) hoặc 72 ( theo bản LXX ); vậy con số này biểu tượng cho
toàn thể các dân trên thế giới. ( 2 ) Chi tiết này quy về Ds 11, 24 – 30, theo
đó YHWH đã ban Thần Khí Ngôn Sứ cho 70 vị kỳ mục do ông Môsê tuyển chọn và 2
người khác vốn không được chọn ( tổng công là 72 người ). Hiểu theo khả năng
thứ hai này, tác giả Luca muốn nhấn mạnh ở đây sứ mạng phổ quát của Hội Thánh
tiên khởi, được thực hiện bởi các vị Thừa Sai không thuộc số các Tông Đồ được
Chúa Giêsu sai đi trong Lc 9, 1 – 6.
Thánh Luca
nói rõ rằng các đồ đệ sẽ đi từng hai người một. Điều này cho phép các ông tự vệ
tốt hơn trong những hoàn cảnh nguy hiểm, nhưng nhất là, cho phép các ông, theo
Đnl 19, 15, hoàn thành tốt hơn vai trò làm chứng của mình. Và quả thực, sau
này, trong sách Công Vụ các Tông Đồ, Thánh Luca sẽ kể về những chuyến đi Thừa
Sai của những cặp Thừa Sai khác nhau: Phêrô và Gioan, Phaolô và Sila, Barnaba
và Marcô…
“Người
bảo các ông: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa
gặt sai thợ ra gặt lúa về” ( c. 2 ). Các ngôn sứ và văn chương khải huyền Do
Thái thường dùng hình ảnh mùa gặt để nói về cuộc phán xét chung cục dành cho Israel
( Is 27, 12 ) và các dân tộc ( Ge 4, 13 ). Vào ngày đó, Thiên Chúa sai các
thiên sứ của Người “thu lượm” các dân và chính Israel như người ta thu lượm mùa
màng. Nhưng đó không phải là viễn tượng của Luca trong đoạn văn này. Mùa gặt ở
đây không được hiểu như là một hình ảnh của biến cố cánh chung vĩ đại, mà là
hình ảnh diễn tả cánh đồng Thừa Sai phổ quát và rộng lớn, trong đó, những dân
cần được nghe Tin Mừng thì đông vô kể mà những nhà Thừa Sai loan báo Tin Mừng
thì thật ít ỏi và bé nhỏ. Tuy nhiên, chính Thiên Chúa mới là chủ của công cuộc
loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
“Anh em
hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” ( c. 3
). Lập tức ngay sau lời sai đi là lời nói về số phận bi thương của những kẻ
được sai đi. Đó là số phận của chiên con đi vào giữa bầy sói, đầy thù hằn và
nguy hiểm. Nhưng đồng thời, ẩn bên dưới hình ảnh chiên con giữa bầy sói còn là
một lời mời gọi các đồ đệ không sử dụng bạo lực: như chiên con giữa bầy sói,
người đồ đệ biết rằng bạo lực không phải là phương thế hữu hiệu giúp hoàn thành
sứ mạng. Hơn nữa, hình ảnh chiên con ở đây còn gợi ý một sự quy chiếu kín đáo
về người Tôi Tớ của YHWH: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng
kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người
chẳng hề mở miệng” ( Is 53, 7 ).
“Đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” ( c. 4a ). Các đồ đệ được sai đi
trong tư thế nghèo triệt để. Các ông không được mang theo mình ngay cả những
thứ tối thiểu rất cần thiết cho cuộc hành trình. Được đặt ở vị trí đầu tiên
trong số các đòi hỏi dành cho vị Thừa Sai, sự nghèo khó triệt để này có một vai
trò quan trọng không thể giảm trừ. Và người ta sẽ chỉ sống được như thế nếu
hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ân ban cho những con
người nghèo khó các sự trợ giúp và bảo vệ cần thiết ( 12, 22tt ).
Sự nghèo
khó triệt để này còn có chức năng chứng tá. Trong cách sống nghèo khó và không
có khả năng tự vệ của mình, các sứ giả cụ thể hoá lý tưởng hoà bình mà họ muốn
công bố và làm chứng. Họ cho thấy mình không thuộc vào tập hợp những kẻ giàu có
và quyền thế, nhưng thuộc về những người nghèo và những người con của sự Bình
An. Chắc chắn Thánh Luca có thừa kinh nghiệm để biết rằng không thể áp dụng
lệnh truyền ở câu 4a này theo sát nghĩa mặt chữ. Nhưng sự nghèo khó triệt để
luôn luôn vẫn là lý tưởng cần phải nhắm tới của mọi vị Thừa Sai, vì đó chính là
hệ quả lôgích dành cho những người được kêu gọi bán mọi sự để đi theo Đức
Giêsu.
“Cũng
đừng chào hỏi ai dọc đường” ( c. 4b ). Lệnh cấm chào hỏi dọc đường này có
lẽ cần được hiểu trong đường hướng của 2V 4, 29, tức là vì một lý do khẩn cấp:
không có thời gian để thực hiện những hành vi và lời nói theo nghi thức chào
hỏi thường được sử dụng trong thế giới đông phương cổ thời. Nhưng cũng có người
hiểu lệnh cấm này theo những cách giải thích khác. Ví dụ: nhà Thừa Sai cần phải
dành lời chào bình an cho những người mà mình được sai đến với họ chứ không
phải với bất cứ ai mình gặp trên đường ( xem c. 5 ); hoặc nhà Thừa Sai không
được chào hỏi ai tức là không được ghé thăm cha mẹ và bè bạn khi đang trên
đường thi hành sứ vụ… Điều quan trọng là theo Thánh Luca, sứ vụ Thừa Sai phải
là yếu tố thu hút tất cả sức lực và sự quan tâm của vị Thừa Sai, khiến họ chỉ
còn chú tâm vào sứ vụ đó mà thôi.
“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này !”
( c. 5 ). Lời chào bình an ở đây không chỉ có giá trị của một công thức chào
hỏi lịch sự thông thường của người Do Thái. Đức Giêsu đã đem vào công thức đó
một nội dung hoàn toàn mới mẻ. Nhiệm vụ của các sứ giả thời Cánh Chung, theo Is
52, 7, là công bố bình an, tức là công bố sự khởi đầu của thời Cứu Độ. Thời Cứu
Độ ấy đã được khai mở rồi với biến cố Đức Giêsu Kitô. Bình an được nói đến ở
đây là thực tại Cứu Độ, một khi được đón nhận, sẽ có thể đem lại cho nhà ấy
những hiệu quả rất cụ thể, như trong trường hợp nhà ông Giakêu ( x. Lc 19, 1 –
10 ), tức là sẽ làm cho sức mạnh của Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu công bố được
thi thố hữu hiệu trong nhà ấy.
“Nếu ở
đó, có con cái của sự bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy;
bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em” ( c. 6 ). Sự bình an “của
anh em” được nói đến ở đây thực chất là Ơn Cứu Độ của Đức Giêsu mà các vị Thừa
Sai có nhiệm vụ đem đến cho người ta. Tác giả Tin Mừng sử dụng một lối nói khá
đặc biệt: “sẽ ở lại”, dịch sát là “sẽ đậu xuống”. Trong 2V 2, 15 và Ds
11, 25, lối nói “sẽ đậu xuống” này được sử dụng để nói về Thần Khí của
Thiên Chúa.
“Hãy ở
lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm
thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” ( c. 7 ). Trước
hết, chúng ta gặp ở đây ( c. 7a ) một lời căn dặn các đồ đệ thực hiện theo đúng
gương mẫu của Đức Giêsu: sống sự hiệp thông sâu xa với những người mà mình được
sai đến, đồng bàn với họ, không e dè những thức ăn mà họ dọn cho ( mặc dù những
thức ăn này có thể “không thanh sạch” theo nghi tiết ), không phòng thủ, nhưng
đón nhận tất cả những gì họ dành cho mình. Câu 7b ( vì làm thợ thì đáng được
trả công ) được thêm vào sau này, vì đã nói đến “quyền” của các vị Thừa
Sai, tức là giả thiết một vấn đề tế nhị nảy sinh trong Hội Thánh hậu phục sinh.
Câu 7c ( đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia ) giả thiết một vấn đề khác của
hoạt động Thừa Sai trong Hội Thánh tiên khởi: cám dỗ đi tìm những nơi chỗ tiện
nghi và thoải mái hơn.
“Vào
bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho
anh em” ( c. 8 ). Từ phạm vi “nhà”, hoạt động của các Thừa Sai được chuyển
sang phạm vi “thành”. Thực ra, câu này khó giải thích. Nó lặp lại những điều đã
được nói trong câu trước liên quan đến những quy tắc ăn uống. Vả lại, rõ ràng
ăn uống trong một nhà nào đó thì tự nhiên hơn ăn uống trong một thành, và thật
lạ lùng khi mối bận tâm trước hết mà người Thừa Sai đối diện vừa khi vào thành
lại là chuyện ăn uống thay vì giảng dạy ! Nhưng thực ra, câu này phản ánh và
đưa ra một nguyên tắc giải quyết cho vấn đề của một hoàn cảnh cụ thể của các
Thừa Sai thời kỳ đầu của Hội Thánh, khi công cuộc loan báo Tin Mừng vừa bắt đầu
lan tới các thành phố của dân ngoại. Trong hoàn cảnh đó, các Thừa Sai thường
phải đối diện với một vấn đề: sự thanh sạch theo nghi tiết của thức ăn mà những
người Do Thái phải lưu tâm. Chúng ta hãy đọc, ví dụ 1Cr 10, 27: “Nếu có
người ngoại nào mời anh em và anh em muốn đi, thì cứ ăn tất cả những gì người
ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề lương tâm”.
Sau khi
nói về các quy tắc phải tuân thủ khi thi hành sứ vụ được sai đi, Đức Giêsu nói
với các đồ đệ về hoạt động mà họ phải thực hiện: “Hãy chữa những người đau
yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”
( c. 9 ). Chữa lành và công bố sứ điệp Tin Mừng. Trật tự giữa hai yếu tố này là
một điều đáng chú ý. Thực ra, trật tự này được coi như một đặc điểm của phần
trình thuật của Luca về cuộc hành trình Đức Giêsu đi lên Giêrusalem: ba lần tác
giả đặt việc chữa lành đi trước lời giảng dạy về Nước Thiên Chúa ( 13, 10 – 17
+ 18 – 21; 14, 1-6 + 7 – 14.15 – 24; 17, 11 – 19 + 20 – 21.22 – 37 ).
Có lẽ theo
Luca những cuộc chữa lành đó là những dấu hiệu của sự kiện Nước Thiên Chúa đến
như Ơn Cứu Độ đạt thấu con người toàn diện. Đàng khác, việc đặt sự chữa lành
trước lời công bố Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa trong bài Tin Mừng còn có
một lý do đặc biệt khác nữa. Nếu Triều Đại Thiên Chúa đến gần “các ông”,
mà “các ông” này lại là những người vừa được chữa lành, tức là những người vốn
bệnh hoạn tật nguyền, thì điều đó có nghĩa là Ơn Cứu Độ được ban trước hết cho những
con người bệnh tật, tội lỗi và bị gạt sang bên lề, tức là những con người “bé
mọn” theo kiểu nói ở 10, 21.
Lần đầu
tiên tác giả Luca dùng công thức “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”
như là cô đọng điểm cốt yếu nhất của sứ điệp Tin Mừng của Đức Giêsu. Các nhà
chú giải tranh luận nhiều về cách Luca hiểu công thức này. Nói một cách nôm na,
vấn đề là tác giả Luca hiểu động từ “eggizein” theo nghĩa nào: “đến gần”
hay “gần đến” ?
Gợi ý
suy niệm:
1. Sự kiện
Đức Giêsu sai 72 Môn Đệ đi rao giảng trong bài Tin Mừng được đặt ngay sau đoạn
văn nói về những đòi hỏi của Đức Giêsu dành cho những ai muốn đi theo Người (
Lc 9, 57 – 62 ). Điều này chứng tỏ bản chất Thừa Sai của việc theo Đức Giêsu và
làm Môn Đệ của Người. Thực ra, chính Đức Ái tông đồ sẽ là yếu tố thống nhất
toàn bộ đời sống của người đồ đệ Đức Kitô. Người đồ đệ được kêu gọi vì sứ vụ
Thừa Sai và cho sứ vụ Thừa Sai.
2. Lời Đức
Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” đặt chúng ta đứng trước
cánh đồng truyền giáo bao la. Cứ theo lôgích bình thường, người nghe sẽ chờ
Chúa tiếp tục nói gì ? “Anh em hãy mau ra đồng và nhanh tay làm việc” ? Nhưng
không. Người lại bảo: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
Chính Thiên Chúa mới là chủ mùa gặt, và tác động đầu tiên của chúng ta lại phải
là cầu nguyện. Cầu nguyện để đặt mình vào trong cái nhìn của Thiên Chúa và để ý
thức về vai trò của Thiên Chúa và của chính chúng ta trong công cuộc truyền
giáo. Đức Giêsu sai chúng ta loan báo Tin Mừng, nhưng Người không muốn chúng ta
sống theo chủ nghĩa duy hoạt động. Không thể phủ nhận giá trị ưu tiên của việc
cầu nguyện trong cuộc đời Thừa Sai.
3. Tin Mừng
trước hết phải được loan báo cho người nghèo. Sứ mạng của Hội Thánh trước hết
là rao giảng Tin mừng cho những người nghèo, những người đau yếu và bị gạt ra
bên ngoài ( “Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ:
"Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” ). Sứ mạng đó bao gồm việc
cứu độ con người toàn diện, chứ không chỉ là Ơn Cứu Độ thiêng liêng và thuộc về
thế giới mai hậu.
4. Những đòi
hỏi của Đức Giêsu đối với các đồ đệ được sai đi trong bài Tin Mừng hôm nay (
cc. 4.7.8 ), luôn luôn cật vấn tất cả chúng ta, nhất là những Thừa Sai đang
trực tiếp tham gia công việc loan báo Tin Mừng. Là Thừa Sai, chúng ta được mời
gọi đem lòng trông cậy mà nhận lấy sự nghèo khó của chính Đức Kitô: “Người
vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái
nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” ( 2Cr 8, 9 ). Đức Ái tông
đồ cũng đòi hỏi các nhà Thừa Sai sống nghèo thật sự, phù hợp với cảnh nghèo của
lớp người nghèo mà họ được sai đến loan báo Tin Mừng, bởi lẽ chính bằng cách
sống ấy, họ chứng tỏ mình liên đới với người nghèo và trở nên dấu chỉ niềm hy
vọng cho người nghèo.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT
No comments:
Post a Comment