Vừa qua, cùng với Hội Thánh, chúng
tôi có những suy nghĩ băn khoăn về việc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất
nước của chúng ta, với những trăn trở làm sao để Tin Mừng được loan báo một
cách hữu hiệu, làm sao để những cánh đồng của chúng ta thu hoạch được những mùa
lúa dồi dào, năng suất ngày một tăng, phẩm chất ngày một hoàn thiện, ngày càng
có thêm người nhận biết Chúa, quy phục quyền Ngài, gia nhập vào Vương Quốc Tình
Yêu của Ngài, và tham gia vào việc thờ phượng Ngài. Làm sao để những giá trị Tin
Mừng được thấm sâu vào văn hóa, sinh hoạt và đời sống thường ngày, quyền năng
của Tin Mừng sẽ đẩy xa bóng tối đang hoành hành trong xã hội, thanh lọc tâm hồn
con người, nâng cao phẩm giá Sự Sống.
Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần
thứ 13 vừa gởi đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng ( Vatican, 30.10.2012 ),
nội dung nói về việc Truyền Giảng Tin Mừng, một vấn đề nổi cộm được đề cập đến
đó là việc “Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền Đức Tin”. Quả thật Hội
Thánh trăn trở với sứ mạng mà Chúa Giêsu đã trao cho mình, cùng với lời sai đi
luôn văng vẳng bên tai và canh cánh trong lòng.
Tuần qua chúng tôi có dịp gặp một
người anh em Linh Mục về từ vùng truyền giáo miền Trung Việt, nơi mà ngày xưa,
trước năm 1964 hàng loạt người nhận Bí Tích Thanh Tẩy gia nhập Hội Thánh, họ
thi nhau vào Đạo để hưởng ân lộc gạo thóc của chính phủ, các vị quan lãnh đạo
địa phương vào Đạo, công chức cán bộ vào Đạo và dân chúng vào Đạo. Một thời
người ta gọi là… “đạo gạo”.
Thế rồi ngay sau khi Tổng Thống Ngô
Đình Diệm bị sát hại ngày 2.11.1963), người ta lần lượt bỏ Đạo, không còn cấp
phát gạo nữa, những vị quan lãnh đạo địa phương không còn hưởng ân lộc của chế
độ nữa nên không còn tha thiết đến Đạo nữa ! Từ ngày ấy, nhất là sau năm 1975,
những khó khăn trắc trở đặc biệt dành cho đạo Công giáo, vùng này dần dần “trắng”
trở lại, người ta thờ ơ với Nhà Thờ, người ta không còn giữ đạo nghĩa Đức Chúa
Trời.
Nhiều vị Thừa Sai đã đến đây để
truyền giáo, có những vị đã nằm xuống trên chính mảnh đất ấy vì công cuộc loan
báo Tin Mừng, thân xác vẫn còn gởi gắm nơi đấy như là những chứng nhận của
những nỗ lực thừa sai. Những vị Thừa Sai con sót lại thì cố gắng bám chặt vào
cánh đồng khô hạn, chấp nhận mọi giao lao khổ cực, chấp nhận sự thờ ơ lạnh lẽo,
chấp nhận cả những bạc bẽo của kiếp người. Những năm gần đây, thêm những Thừa
Sai trẻ được gởi đến, họ tiếp tục nối bước cha anh, âm thầm, lặng lẽ, cầu
nguyện, kiên trì miệt mài. Họ di chuyển không mệt mỏi trên những vùng bạc trắng
nhưng ngày xưa đã một thời sầm uất, không nản lòng, không thất vọng, họ cứ tiếp
tục vượt qua gian khổ lặng lẽ tìm kiếm và thăm viếng những “con chiên xa đàn”.
Rất khiêm tốn, người Linh Mục nói
với tôi: “Anh đừng viết về chúng em, kỳ lắm !”, nhưng tôi vẫn muốn chia sẻ với
mọi người. Vài năm gần đây, anh em chúng tôi ghi nhận đã bắt đầu có sự trở lại,
không ồn ào, nhưng nhẩm tính đã có đến hàng trăm người lần lượt trở lại với Hội
Thánh, từ chỗ chỉ còn ba Giáo Điểm chính có Thánh Lễ, hôm nay đã có thể dâng Thánh
Lễ Chúa Nhật ở toàn bộ gần 20 Giáo Điểm năm xưa từng dâng lễ. Đến cả ngày
thường bây giờ các thừa sai cũng cố gắng “lữ hành” hàng chục cây số lên rừng
xuống biển để dâng Lễ cho những “Giáo Dân trở lại”. Một mùa lúa bắt đầu…
Tôi hỏi anh em “vì sao ?” Vì một thế
hệ Thừa Sai đàn anh đã kiên trì hiện diện như bờ giếng cổ xưa lặng lẽ chờ người
phụ nữ Samari ( Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ 13 ), vì một
thế hệ Thừa Sai đàn em dám tin vào nỗi khát khao là có thật nơi con người để
lặng lẽ tiếp tục làm một… bờ giếng. Vì chiếc giếng âm thầm đơn sơ làm chứng tá
cho một sự gặp gỡ diệu kỳ giữa con người và Thiên Chúa, một Thiên Chúa luôn chờ
đợi, tìm kiếm và bắt chuyện, ân cần ngỏ lời với con người. Những chiếc vò rỗng
đã được đổ đầy nước, nhưng quan trọng hơn hết, ấy chính là người đàn bà Samari
đã chạy về làng của bà mà khoe, mà cao rao với mọi người về cuộc gặp gỡ kỳ diệu
đó.
Đã đến lúc chúng ta cần phải nói đến
niềm hy vọng của người Kitô hữu, một niềm hy vọng không được phép tắt lịm, cần
phải nói đến trái tim của người Kitô hữu, một trái tim đủ lớn để yêu mến mọi
người, và cần phải nói đến một sự thay đổi gương mặt của người Kitô hữu, một
gương mặt chứng nhân khiêm tốn, hiền hòa, giản dị và trung kiên.
Mọi sự còn lại, Chúa làm…
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 18.11.2012
No comments:
Post a Comment