Gặp Chúa trên đường Đamát
Tóm
lược
Thánh Phaolô từng trải nghiệm
về một đổi đời khi gặp gỡ Chúa-Phục-Sinh trên đường Đamát. Gặp gỡ này, đánh
động ông suốt một đời, cả về sau. Gặp Chúa rồi, thánh-nhân lại nhận ra rằng:
đằng sau nỗi chết, vẫn còn đó sự sống. Như ta biết và cũng từng mơ chuyện này
cho riêng mình. Mơ, là mơ điều gì đó xảy đến tiếp theo sau, có cuộc sống siêu
phàm như của Đấng rất thánh. Mơ, là mơ về một thăng hoa phấn kích rất khác biệt
ở cuộc sống và ở cả nỗi chết. Và, giữ lại nơi con người những giá trị ở cả hai
cảm nghiệm sống động và chết chóc nữa. Khi ra đi để đến với mọi người trong
cuộc sống, thánh-nhân đã gặp Chúa và mọi người đang lùi dần vào cõi chết của
chính họ. Ra đi gặp gỡ, để có được sự sống có nâng nhấc, rất trỗi dậy.
Thánh Phaolô gọi đó là sự
sống phục sinh. Điều này có nghĩa, là: cách sống cũng hiện tại, chứ không phải
chần chờ đến mãi về sau. Thánh-nhân lại cũng nhận ra rằng: lối sống nhị-nguyên
ta hằng suy-tưởng, không chỉ có mỗi nhị-nguyên sống/chết mà thôi, nhưng còn có
cả nhị-nguyên tốt/xấu, thấp/cao, Do thái/dân ngoại, bây giờ/mai sau, ở đây/nơi
đó, chủ/tớ cùng nhiều nhị-nguyên khác vẫn vẫn thăng-hoa nâng nhấc, vào mọi lúc.
Chính vì thế, ta khởi đầu cuộc sống siêu-phàm ngay lúc này. Và như thế, là: Đức
Giêsu đã mặc khải sự việc ra như thế với chính thánh-nhân, và đã ban tặng cho
ông niềm xác-tín để ông thấy được rằng: qua Đức Giêsu, nhị-nguyên sống/chết có
khả năng thi-thố với mỗi người và hết mọi người. Trên nguyên tắc, nhị-nguyên
nâng nhấc/trỗi dậy ấy cũng đã ban cho mọi người. Đó, là tự do cởi mở vẫn rất
thực. Một sự thực, như Phục sinh/trỗi dậy đang khởi phát nơi ta. Và, mỗi khi ta
có cảm nghiệm về những chuyện như thế, cảm nghiệm ấy lại sẽ ngang qua ta mà đến
với mỗi người, để hết mọi người được tự do thật sự. Và, sứ mạng mà thánh Phaolô
kiến tạo cho cộng đoàn của thánh-nhân để họ sống như thế. Và thánh nhân, cùng
với bạn đạo ở các cộng đoàn thân quen đã học được cách sống một cuộc sống có
nâng nhấc/phục sinh –vượt mọi rào cản dù đầy huý kỵ/sợ sệt- để sự sống của
chính mình mang ý nghĩa rất thiết thực.
Tường trình trên giấy bút
Vừa qua, chúng ta đã khởi sự
tư-duy về hiện tượng xảy đến sau diễn biến đổi đời nơi thánh Phaolô, thì nay là
dịp thuận để ta tập trung suy tư về thánh-nhân, cho kỹ hơn. Trước hết, tưởng
cũng nên đề cập đến các sự kiện trọng đại từng xảy ra trong đời thánh Phaolô.
Đôi lúc, nhiều người giống như tôi, vẫn đắn đo/do dự khi sử dụng cụm từ “sự
kiện” để diễn tả cuộc đổi đời nơi thánh-nhân. Bởi, kinh nghiệm ấy có thể xảy
đến với bất cứ ai, ở bất cứ nơi nào đều có thể đuợc. Và xảy đến, là đến với bản
thân mình trong quãng dài cuộc đời như từng xảy đến với thánh Phaolô trên đường
Đamát khiến ông đã có một đổi đời, rất hiện sinh.
Đề cập vấn đề này, có một số
yếu tố bất chợt nảy sinh khiến ta phải tra cứu cho kỹ lưỡng. Chẳng hạn như sách
Công Vụ, ta thấy tác giả đề cập đến “chuyển biến” này, những ba lần. Ở đoạn 9,
22 và 26 trong đó có cả một trình thuật rất tuần tự, khúc chiết chỉ nói về sự
việc ta truy tìm. Nhưng ở đây, thiết tưởng ta cũng nên tự chế để tập trung vào
những điều khả dĩ giúp ta về với nguồn văn nào khác có thể gặp. Và, như dự
đoán, có thể thánh Luca cũng đã “miêu-dạng-hoá” truyện kể để thánh-sử có thể
diễn tả theo lối hành văn rất thi tứ vẫn thường thấy nơi thánh sử. Xem như thế,
đó không phải là Phaolô thuần khiết mà các đấng bậc trong Hội thánh đã gặp ở
các chương/đoạn trong Công Vụ như quà tặng hồng ân cho-không/biếu-không để rồi
nhanh chóng kết luận là: thánh Phaolô từng bách hại cộng đoàn tín hữu Đạo Chúa
ở Giuđêa. Và từ đó, có lập trường cứng ngắc hoặc quan điểm không xác đáng cho
lắm nhằm hỗ-trợ luận-cứ lại vẫn bảo: thánh Phaolô có phép của Thượng Tế
Giêrusalem được đặc ân đi Đamát săn bắt, gom lại và cầm giữ nhiều tín hữu dân
con Đạo Chúa ở đất miền Đamát, xứ Syria. Bản thân, tôi
hơi ngờ ngợ tính xác thực của sự việc xảy đến không như chi tiết lịch sử đã
diễn bày.
Có một chuyện cần minh định
ngay ở đây, là: Thuợng Tế nói ở trên không có thẩm quyền gì ở ngoại vi xứ miền
Giuđêa hết. Sự việc càng được xác chứng thực hơn, do bởi lời lẽ của thánh-nhân
từng cho thấy rằng ông chẳng khi nào bị tai tiếng chính mình là tay tội-đồ
chuyên bắt bớ giam cầm bất cứ một ai thuộc cộng đoàn tín hữu ở Giuđêa, hết.
Ngôn ngữ, thánh Phaolô sử dụng là để nói rằng mình cũng là “kẻ bách hại” tựa hồ
như lời của các tín hữu từng ăn-năn sám hối nay công nhận lỗi tội “bách hại”
chính mình và tự đặt mình ngang hàng với kẻ chuyên bắt bớ/giam cầm con dân của
Chúa. Ngôn ngữ khi xưa thánh-nhân sử dụng, cũng tựa hồ lời lẽ ta vẫn có mỗi khi
quyết tâm cải hối quyết liệt là thế. Quả thật, đôi khi ta cũng liến thoắng cho
rằng: kinh nghiệm mà thánh Phaolô từng trải, vẫn xảy đến với nhiều người/nhiều
vị trên lộ-trình Đamát đi bất cứ đâu. Nhưng, ở đây nữa, việc chỉ đích danh chốn
miền như thế mà không dựa vào tài liệu đích đáng nào cả, thật ra cũng không
phải. Bất cứ một ai từng có cảm nghiệm đều tưởng tượng sự kiện xảy đến với
thánh Phaolô khi thánh-nhân hướng về Đamát vào lúc đó khiến ông được Chúa gặp
gỡ đánh cho ngã ngựa. Đọc kỹ văn bản Kinh thánh ta tuyệt nhiên không thấy chỗ
nào trong Sách Công vụ hoặc trong các thư do thánh Phaolô ghi, cho thấy ông có
mặt ở nơi đó, vào lúc ấy. Và cũng chẳng ai gặp thấy chương/đoạn nào lại cứ kể
về chuyện thánh Phaolô lên đường đi Đamát bằng ngựa, mà trên thực tế, thì: một
người như thánh Phaolô, chẳng khi nào lại có đủ khả năng lữ-hành rong ruổi đó
đây trên lưng ngựa, hết. Ngựa ở đây, là ảnh hình được nghệ nhân thời sau này
nghĩ ra để làm cho người chiêm ngưỡng tranh và ảnh, cảm thấy vui khi trầm tư
ngưỡng mộ. Điều thú vị hơn, là: nếu ta quan sát kỹ thực chất của sự việc có ghi
trong văn bản kể trên, đều không thấy nói đến nội dung thị kiến đã xuất-hiện
cách nào đó, trên tranh vẽ. Điều đó, chứng tỏ tranh ảnh nghệ thuật chỉ diễn tả
tâm tư người họa sĩ khi họ thực hiện bản vẽ, chứ không hề nắm vững lịch sử xảy ra từ các thế kỷ
trước.
Đoạn 9 sách Công Vụ, thánh
Luca viết truyện kể theo văn phong/thể loại rất độc đáo, rất đặc biệt của thánh
Phaolô theo phong cách truyện “dã sử” về thánh-nhân, thôi. Đoạn 22, tác giả lại
để cho thánh Phaolô đến và nói về chuyện này ngay tại đền thờ. Đoạn 26, thánh
Luca cũng đã để cho thánh Phaolô nói cho Agrippa và Bernicê biết về các vấn đề
như thế. Xem như thế, thì tất cả những gì nói ở Sách Công vụ đều là vai-trò
mang tính chất rất kịch thấy ở truyện kể mà thánh Luca thường trích dẫn, rất
nhiều lần về sau.
Công Vụ đoạn 9,
tạo cho trình-thuật thánh Luca tính chất cũng riêng tây về sự việc
Chúa-Phục-Sinh can thiệp vào nội tâm bên trong thánh Phaolô. Đoạn 22, lại đã
tạo cho trình-thuật kể về thánh Phaolô bằng lời lẽ qua đó thánh-nhân tự bào
chữa cho chính mình ngay tại hiện trường Antônia, tức pháo-đài làm nền cho
vụ/việc ở trên hầu nói lên một minh định bảo rằng: thánh Phaolô thực sự đã
trung thành với thánh-ý Chúa của người Do thái và thánh-nhân bằng lòng cho
người ngoại giáo được gia nhập vào với ơn cứu độ, và như thế không làm đứt-đoạn
Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài.
Thánh Luca cũng để
cho nhân vật Phaolô trong trình thuật của mình được nói lên một điều là: mọi
người đều thấy được ánh sáng chói chang/đặc biệt như ông đã từng thấy, dù chỉ
nghe được tiếng nói vào hôm ấy, thôi. Và, sau khi đã tự bảo vệ cho mình như
thế, thánh Phaolô lại đã “nhập thần” đón nhận ơn gọi ngôn sứ phục vụ người Do
thái, chứ không chỉ mỗi ơn gọi rất riêng tây của dân Do thái, thôi. Công Vụ
đoạn 26, cũng cho thấy thánh Luca giới thiệu nhân vật Phaolô biện hộ chính mình
trước Agrippa và Festus, rồi tuyên bố mình là tay Biệt Phái luôn tin tưởng rằng
người Do thái hiểu rõ sự Sống lại một cách cũng rành rẽ, đâu kém ai. Một lần
nữa, điều kỳ lạ chính-yếu nơi Đức Kitô là Ngài vẫn tiếp tục tuyển chọn Israel làm dân riêng của
Ngài, mà thôi.
Ở đây, quả là tôi cũng lệ
thuộc khá nhiều vào chương 1 của thư Galát và đôi lúc cũng dựa trên thư
Corinthô là thư có những chỗ ghi chú lời tuyên bố rất riêng tây của thánh
Phaolô về sự việc này. Luận-cứ chính ở đây lại muốn nói, rằng: thánh Phaolô
từng gặp gỡ Đức Kitô ngang qua thị kiến sống động. Và Đức Giêsu, Ngài vẫn sống
sót. Chứ, Ngài đâu đã chết và cái chết trên thập giá đâu đã kết thúc đời Ngài
bằng một sự kiện tương tự thế. Và, Ngài cũng được chôn cất cẩn thận rồi đã ra
đi biền biệt về chốn miền khó biết bằng đầu óc tưởng tượng của con người. Thật
sự thì Chúa đang sống rất sinh động –điều này có nghĩa là: Ngài đã “trỗi dậy.”
Hoặc, nói theo ngôn ngữ của Đạo Chúa thời đó, thì rõ ràng Đức Giêsu Kitô đã
Phục Sinh. Nói thế có nghĩa: với thánh Phaolô là người Do thái, thì việc Chúa
sống lại đã bắt đầu, rất thường tình. Chính sự kiện này cũng đã thay đổi toàn
bộ thế giới.
“Thật thế, thưa anh em, tôi xin nói để anh em biết:
Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã
truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc
khải. Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái:
tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa.
Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với
tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.
Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã kêu gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.” (Gal 1: 11-19)
Trước
đây, thánh Phaolô có nghe nói về Đức Giêsu. Có lẽ thánh-nhân cũng không nghe
nhiều về Ngài. Thánh-nhân chưa từng gặp Chúa lần nào, lại chưa bao giờ thấy
Ngài bằng mắt thịt phàm trần, cũng chẳng ở loanh quanh đâu đó vào lúc Chúa hoạt
động hoặc ông có mặt ở đó hay không, vào những nơi Chúa đặt chân đến giảng rao.
Tôi thiết nghĩ, thánh Phaolô từng nghe nhiều về Chúa, nhất thứ là khi Ngài nói
về Nước Trời gần kề; và khi đó, hầu hết những người theo chân Chúa đều nghĩ
rằng: việc sống lại cùng trỗi dậy đã khởi sự với Chúa-Phục-Sinh. Đáng lý ra,
thánh Phaolô cũng nói: “Điều này rõ thật
phi lý!” Tức, ta hãy để chuyện ấy qua một bên, cũng chẳng cần suy nghĩ về
việc ấy, mà làm gì, lúc này. Theo tôi thì, chính ở giai đoạn này, nhiều người lại
cứ nghĩ: thánh Phaolô vẫn là như thế. Nói khác đi, thì sự việc dù có xảy đến
trên đường Đamát hoặc nơi nào khác, thánh-nhân vẫn cứ nghe nói có vị nào đó
đang làm chuyện lạ kỳ như chấp nhận để cho người ngoại giáo gia nhập cộng đoàn
Do thái vì chuyện lạ về Chúa-Sống-lại, ra như thế. Và ông tìm cách không để
đấng bậc trưởng thượng ngăn chặn sự việc ấy, ngay tức thì dù phải dùng đến bạo
lực, cũng vẫn làm.
Giờ
đây, cũng nên xem xét sự thể xảy đến với thánh Phaolô trên đường đi Đamát và coi
xem hậu quả của việc ấy thế nào, về sau. Có điều ai cũng hiểu, là: chuyện gì đó
đang thực sự xảy đến với thánh Phaolô.
-------------------
Lập trường thánh
Phaolô
Những
gì xảy đến với thánh Phaolô lâu nay vẫn được mọi người coi đó là mặc khải. Là,
hồi hướng trở lại, hoặc ơn gọi, hay sứ vụ. Nhưng, nói thế có ý gì? Nay thì, các
cụm từ như thế vẫn đan kết nhau khá chặt, khiến ta có thể dùng cụm từ nào bao hàm
cùng một ý nghĩa với sự kiện “hiện ra” nếu chúng mang trọn kinh nghiệm ý nghĩa
đánh động mọi người. Thông thường thì, cụm từ “hiện ra” được cộng thêm chất
liệu mang tính chủ quan của người dính dự vào đó. “Mặc khải”, là ngôn từ được thánh
Phaolô thường hay sử dụng để diễn tả những gì đã xảy đến.
Bên
tiếng Hy Lạp, “mặc khải” là cụm từ xuất từ chữ “apocalypsis” có nghĩa: “cánh chung” hay “khải huyền”, để chỉ về thị
kiến nói đến những gì xảy ra, vào lúc cuối. Cụm từ “mặc khải” đây là có từ tiểu
phẩm bằng tiếng Hy Lạp trong đó thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã mặc khải một cách huyền nhiệm về Con của Ngài, cho tôi”.
Đây là tuyên ngôn đặc biệt. Tuyên ngôn này, không có nghĩa: thánh-nhân đã
“thấy” được việc gì đó bằng mắt thịt phàm trần ở đâu đó. Nhưng ông “thấy” được
chuyện đó, xảy đến bên trong ông. Đó là sự thể sâu sắc. Và sự thể này, dẫn về
những điều mà một số người gọi bằng cụm từ văn hoa như “hồi hướng trở lại”. Nhưng,
chuyện này lại không có nghĩa bảo rằng người nào đó từ phía Do-thái-giáo đã hồi
hướng trở về với Đạo Chúa. Đó, cũng không phải là cuộc “trở lại” từ đạo này sang
đạo khác, mà đích thực là “Hồi hướng trở lại” nếu ta buộc phải dùng từ ngữ này theo
quan niệm thế nào đó có tự bên trong Israel bằng lập trường khác cũng từ bên
trong Israel, mà ra.
Thánh
Phaolô từng ở vị thế đó cho đến giây phút ông thở hơi cuối cùng; hoặc, cho đến khi
ông trỗi dậy theo cung cách rất Phục sinh, để thành người Do thái đích thực,
rất hoàn toàn. Thành thử, nói cho cùng thì: “Hồi hướng trở lại” cũng mang ý
nghĩa khá lờ mờ, tối um. Bản thân tôi, chẳng khi nào lại muốn sử dụng cụm từ
này một cách tùy tiện hết. Và, điều đó còn dẫn chứng từ “ơn gọi”, hoặc lời kêu
mời trực tiếp từ Thiên Chúa, để rồi ta sẽ làm được những việc gồm tóm kết quả
của một kinh nghiệm về mặc khải, cũng rất mực.
Thánh
Phaolô cũng không được nhóm hội/cộng đoàn nào mời gọi “hồi hướng trở lại” hết. Thánh
nhân cũng chẳng được cộng đoàn nào ở Antiôkia gia dĩ muốn mời chào. Thánh-nhân lại
không được các vị có thẩm quyền từ các giáo hội cho phép làm như thế. Đôi khi thánh-nhân
cũng bị cộng đoàn giáo hội ở nhiều nơi xem xét theo dõi nữa. Thành thử, ta có
dùng cụm từ “sự kiện” này cũng chẳng sao. Nhưng ơn gọi và sáng kiến này, là lời
mời trực tiếp từ Thiên Chúa, Đấng đã nâng nhấc Đức Giêsu để Ngài trỗi
dậy từ cõi chết –và chính Thiên Chúa của mọi sự kiện phục-sinh rất thường tình
cũng đã làm thế với Đức Giêsu- và nhờ cụm từ mang ý nghĩa rõ như thế, thánh
Phaolô đã hiểu rõ sứ mạng của ông, suốt đời, khiến ông phải làm việc gì đó như
kết quả kiến tạo ở bên trong lại đã xuất phát từ cảm nghiệm lớn lao kia.
Để
diễn tả kinh nghiệm mà thánh-nhân từng trải, đôi lúc ta cũng đọc ở đâu đó đại ý
có nói: thánh-nhân bị đánh gục đến độ ông trở nên mù loà. Sách Công Vụ quả cũng
nói những câu đại loại mang ý nghĩa như thế. Không chỉ mỗi thế mà thôi, một số vị
còn đi xa hơn nữa, vẫn cho rằng: thánh-nhân còn bị điếc đặc nữa là đằng khác.
Trong khi đó, thánh-nhân lại nói khác. Ở thư thứ nhất Corinthô đoạn 9 câu 1,
thánh nhân ghi:“Tôi đã chẳng thấy Đức
Giêsu, là Chúa chúng ta sao?” Thật ra, mắt thánh nhân không bị mù/loà hay
khiếm thị gì hết, nhưng trái lại, ông vẫn “thấy” Chúa. Cũng trong thư Côrinthô
nói trên, thánh-nhân lại nói: “Người đã
hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào trẻ sinh non.” (1Cr 15: 8). Mù loà và
“sinh non” ở đây, có thể và không thể xảy đến ngay lúc đó được hết. Nhưng, ở đây
đúng là thị kiến. Có lẽ không phải thị kiến theo kiểu mắt thịt phàm trần vẫn nhìn
thấy; nhưng đích thực là thị kiến theo nghĩa chữ, rất rõ. Chính thánh Phaolô có
nói ở một đoạn khác, rằng: “Có được đức
tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là được nghe công bố lời của Đức Ki-tô.”(Rm
10: 17). Bằng vào những lời như thế, tôi đoan chắc một điều, là: thánh Phaolô
cũng đã qui chiếu những điều mà Đức Kitô mặc-khải cho ông, như đã trích dẫn ở
sách Công Vụ.
Nếu
thế thì, thánh Phaolô thực sự đã “thấy” và đã “nghe” ai đó nói với ông. “Ai Đó”
ở đây đã mặc khải chính Mình Ngài cho thánh-nhân để ông nhận thức cho rõ. “Ai
Đó” đây, chính là Đức Kitô-sống-lại. Và thánh Phaolô, bằng vào lý lịch cùng quá
khứ của người Do thái từng thông hiểu thần học và sự Sống-Lại theo đúng cách,
vẫn thấy thoáng hiện trước mắt ông những điều đã được mặc khải như thế. Thánh
Phaolô nhìn vào sự kiện “sống lại/trỗi dậy” rất thường tình ở Đức Giêsu và khi
ấy thánh-nhân đã kêu lên: “Chà! Rõ ràng là
thế này đây!” Và, đó là thời khắc đặc biệt gặp thấy trong toàn bộ cuộc đời
của thánh-nhân.
Có
thể nói, thánh Phaolô không mấy thích thú với cái nhìn bằng mắt thịt phàm trần về
Đức Chúa-Sống-Lại, hoặc cứ tìm xem nơi xác thể của Chúa-Sống-lại xem sự thể xảy
ra như thế nào. Thánh-nhân không thể quan tâm ít đi –để rồi sau đó sẽ lại chẳng
biết gì hơn thêm. Khi có người ở Côrinthô hỏi thánh-nhân là: ông có “thấy” thân
xác sống lại nó giống thứ gì không? thì ông đáp: “Kìa! Tôi đâu rõ về chuyện đó!” Thánh-nhân có lần cũng nói: “Bạn biết đấy! Khi bạn gieo hạt giống vào
lòng đất, nó sẽ trỗi dậy rồi nở rộ thành vụ mùa rất đạt. Cũng thế, những gì tôi
biết được, là thế này: khi ta đi vào lòng đất rồi chết đi, như thế là ta cũng
trỗi dậy để thành một thứ gì đó khác hẳn. Thứ gì đó, tôi thật không rõ. Đừng
hỏi tôi những điều như thế. Đó không là điều khiến ta cần để ý lắm đâu…”
Có
gọi đó là “Phục sinh” hay không, thánh Phaolô không xác định ý nghĩa của sự
việc ấy như một “phục hồi sinh lực” của xác thể phàm trần –như trọn vẹn một
tổng hợp bao gồm nhiều hơn thế. Và, nó hoàn toàn khác trước rất nhiều. Thế nên,
việc đối đầu/chạm mặt với Đức Chúa-Sống-Lại quả là đã đem đến cho thánh-nhân
một nhận thức rất rõ và một sứ điệp rất hiện thực. Và, ông “thấy” được điều đó cũng
như đã từng “nghe” chuyện đó rất thâm sâu. Ông định ra quan điểm lập trường rất
riêng tư về sự việc phục-sinh/trỗi dậy là thế đấy.
Quả
thật thánh-nhân không “thấy” hình hài/xác thể rất xác phàm của Đức
Chúa-Sống-Lại. Ông không thể diễn tả bề mặt thể chất rất bên ngoài, nếu như
việc đó không có thật. Ông cảm nghiệm được về một hiện diện mà ông chưa từng
biết. Theo cách nào đó, ông biết rất rõ đó chính là Đức Chúa, rất Giêsu.
Ở đây nữa, ta nên nhớ: thánh Phaolô chưa từng giáp
mặt gặp Đức Giêsu một lần nào và ông cũng chẳng hình tượng được Ngài trông
giống ai.
Đây
là sự thể về kinh nghiệm quý báu, rất khó đoán. Duy, có điều chắc chắn, là: ông
“biết” được rằng Đức Kitô –Đấng đã chết đi, rồi bị treo trên thập giá cho đến
chết- Ngài vẫn sống sót. Và, Ngài đang có ở đó với ông. Ta gọi đó là “Phục sinh/trỗi
dậy”, nhưng thánh Phaolô không định nghĩa sự việc như cuộc “phục hồi sinh lực” rất
thể xác, phàm trần. Đó là tổng thể dồi dào ý nhị hơn thế nhiều. Bằng vào giáp
mặt Đức Kitô sinh động, việc ấy đem đến cho ông một sứ điệp. Và, sứ điệp ông đây,
là những gì ông được “nghe” và được biết, rất sâu sắc. Và, ông có được quan
điểm/lập trường về sự việc này, thật vững chắc.
---------------------
SỰ SỐNG SIÊU PHÀM
Quan
điểm này, là thế nào? Đây không là cung cách ta thường nói. Cũng không là những
gì từng xác chứng rằng: con người của Đức Giêsu rất có lý và giáo huấn của Chúa,
rất đúng thực. Điều đó không chỉ dạy ta mỗi điều, là: những người từng dấn thân
theo chân Đức Giêsu cũng rất đúng đắn và thánh Phaolô sẽ sai sót nếu ông chỉ
muốn nói về những xác tín của ông vào dạo đó, mà thôi. Điều này không phải để bảo
rằng Đức Giêsu nay lại “sống sót”, thêm lần nữa. Chắc chắn là như thế. Và, Ngài
chưa từng “chết” đi! Đúng hơn, thánh Phaolô biết rằng: ở nơi Đức Giêsu mà ông
gặp, vẫn có Sự Sống (viết Hoa) rất lớn. Lớn lao hơn cả loại hình sinh-động mà
ta từng biết đến. Lớn hơn cả sự chết đã khiến Ngài biến mất dạng. Đó là Sự Sống
Siêu Phàm gồm tất cả những gì tích cực ở cả hai thứ: ở sự sống theo loại hình
của ta đang sống và ở cả sự chết theo cung cách ta sẽ trải nghiệm. Đức Giêsu là
Sự Sống Còn rất Siêu Phàm. Và, Ngài đang sống cuộc Sống Siêu Phàm này, cũng
đúng nghĩa. Bằng vào sự Sống gồm tóm cả “sự sống động” theo nghĩa thường tình
và “cái chết” theo nghĩa cũng rất thường, như mọi lúc.
Như
thế có ý nghĩa như thế nào? Có nghĩa là, ta đang nói về cái chết theo nghĩa “giá
trị”, chứ không theo nghĩa xác thể, phàm trần. Ý thánh Phaolô nói ở đây, không đề
cập đến sự chết theo nghĩa xác thể, phàm trần. Đức Giêsu đã không tỏ cho thánh
Phaolô “thấy” được thân xác có hình hài thể chất như thi hài có dấu ấn nơi tay,
chân và nương long Ngài, như ta vẫn biết và vẫn tưởng. Đúng hơn, thánh Phaolô
trở thành người hiểu và biết Đức Giêsu là Đấng ông từng gặp. Hiểu về cái chết
theo nghĩa rất “giá trị”. Những giá trị tỏ cho thấy: người đang chết dần mòn
lại viết về người nào đó có đặc tính và sắc thái nhân vị để quyết được rằng
người ấy có thể không “có” thật, trừ phi họ đang hiện diện ở bên trong và “có”
thật qua kinh nghiệm mình từng trải về sự chết. Tôi gọi đây là “giá trị”. Các
giá trị như thế đã “có” nơi Đức Giêsu, khi thánh Phaolô gặp Ngài. Giá trị ấy,
được viết tận bên trong và sẽ lưu lại như đã bao gồm Sự Sống Siêu Phàm mới của
Ngài, mãi mãi.
Điều
này dẫn đến ý niệm hoàn toàn khác biệt về khổ
đau. Nó thay đổi ý tưởng thâm sâu thánh
Phaolô từng đề cập về vấn đề “Trời”. “Trời” đây, không là chốn miền ở đó
mọi người kết thúc cuộc sống bằng vào những thứ mà họ muốn mang theo; để rồi,
cũng quên mất chuyện đó và chẳng buồn nhớ đến nó. “Trời” đây, không là bệnh lú lẫn/mất
trí nhớ rất miên trường, thứ bệnh mà tất cả chúng ta đây chưa từng kinh qua,
nên không rõ. “Trời” đây, thực sự mang ý nghĩa rất trái ngược. “Trời” vẫn lưu
lại ở sự việc tràn đầy ý nghĩa cũng rất thực của mọi sự, khiến ta chịu đựng được
khổ đau trong toàn bộ ý nghĩa của sự chết dần chết mòn. Đó là tư tưởng lớn, rất
vĩ đại.
Ta
thừa hiểu cung cách mà người Công giáo chúng ta lâu nay vẫn quan niệm và nhận
thức về sự hiện diện của Chúa nơi Thánh
Thể. Điều, mà người Công giáo chúng ta thực sự muốn bày tỏ, là: ta không
quen tin rằng: Đức Giêsu vẫn hiện diện rất thực ở nơi khác. Vâng. Đây không là
cung cách tư duy của riêng thánh Phaolô, mà thôi. Điều, mà thánh-nhân muốn nói
lên, đó là: hiện diện đích thực của Đức-Chúa-sống-lại ở khắp nơi và cả nơi nào
hiện hữu mọi khổ đau, sầu buồn trong vũ trụ. Đức Giêsu hoạt động theo cung cách
mà Đấng thánh sống động gồm tóm mọi sự đặt để trong hiện diện rất trỗi dậy, nơi
Ngài. Theo tôi, ta sẽ hiểu được sự việc xảy đến rất rõ, nếu thánh Phaolô từng
có ngựa để cỡi, thì có lẽ ông cũng đã ngã ngửa khỏi đó, vào lúc ấy. Và, như thế
sẽ đảo ngược tất cả những gì trước đây ông thiết lập.
-----------
Đấng chết đi trên thập
giá,
đã trỗi dậy.
Sự
Sống Siêu Phàm của Đức Chúa Sống Lại đã tổng hợp mọi giá trị như thế. Và, các
giá trị này thuộc về sự Sống Siêu Phàm. Tất cả đan kết với nhau, để nên một.
Một, trong Đức Giêsu Sống lại rất đích thực.
Đó
là lý do khiến thánh Phaolô diễn tả hai cụm-từ thành một, nơi Đức Giêsu.
Thánh-nhân gọi Ngài là thế, bằng tiếng Hy Lạp qua cụm từ “Christos estauromenos”. Mỗi khi thánh Phaolô sử dụng cụm từ “Christos” này, thánh-nhân đều muốn nói
đến Đức-Chúa-Sống-lại. Cụm từ “Estauromenos”
tiếng Hy Lạp, là phân-từ có vĩ ngữ “stauros”
theo sát bên mình mang ý nghĩa của một thập giá. Theo văn phạm, đó là phân-từ
hiện-tại đang diễn tiến. Điều này có ý diễn tả Đức-Chúa-Phục-Sinh đang ở vào
trạng thái tiếp tục sự Sống gồm các giá trị đặt nơi Ngài bằng kinh nghiệm chết
trên thập giá. Có lẽ, cũng nên đặt gạch nối (-) cho cụm từ dài giòng này bằng
danh xưng Đấng-Sống-Lại-đã-từng-chết-trên-thập-giá. Ngài đích thực là Đấng đã
gặp gỡ thánh Phaolô trên đường Đamát. Cuộc gặp ấy rất thoáng chốc, khiến thánh
Phaolô thay đổi tất cả những gì ông suy nghĩ về sự sống vào dạo trước; và cả
đến những gì ông suy nghĩ về cái chết từng thể hiện.
Tôi
còn nhớ có lần từng giảng một bài trong thánh lễ nọ. Hình như hôm đó là ngày lễ
Mẹ Về Trời. Lúc ấy tôi cứ suy nghĩ: nếu Đức Mẹ đi vào cuộc phục sinh/trỗi dậy,
như tín điều ta vẫn quyết, thì bà con ta có nghĩ là: các nếp nhăn mà Đức Mẹ đã có
trong cuộc sống thế trần vẫn còn đó trong thân xác của Mẹ trỗi dậy từ cõi chết
không? Câu trả lời mà ai cũng nên có, là: “Có”. Đúng thế. Các nếp nhăn nơi Đức Mẹ,
là do Mẹ vốn lo âu chăm sóc cho Con của Mẹ có thể cũng sẽ là một thứ để san sẻ
việc Chúa chịu đóng đinh vào thập giá, có đúng không? Và các nếp nhăn ấy, sẽ không
mờ nhạt được. Các vết nhăn, theo cung cách nào đó, vẫn còn lưu lại nơi giá trị
đặt trong con người cụ thể của Đức Mẹ. Con người đây, tôi không có ý nói về xác
thể, hình hài, hoặc ảnh tượng –điều này cũng rất dễ làm cho mọi người cười
khẩy- nhưng nơi những gì được viết vẫn có đặc trưng lưu lại mãi mãi và nhất
định là thế. Và, như mọi người đều biết, đó là ý niệm rất đặc trưng, cũng không
là những gì nằm trong óc tưởng tượng của người Công giáo chúng ta, bởi khi nói
chữ “phục sinh/trỗi dậy” thì người đi Đạo thường hay nghĩ đến các siêu sao hoặc
nhân vật siêu phàm, toàn thiện, rất đẹp đẽ như khi ta kể về các “Hoa khôi Vũ
trụ”, hoặc những gì tuyệt vời đến độ thế.
Ở
đây, tôi chỉ muốn nói rằng: ta nên tách bạch khỏi lề thói phản ảnh sự tha-hoá
như chàng Narcisse trong truyện thần thoại, mà theo tôi, đó không là niềm tin
thực sự mà chỉ là những chứng loạn thần kinh, thôi. Thật tình thì, tôi cũng tìm
cách thử tạo ra cái-gọi-là cơn “sốc” mà thánh Phaolô hẳn đã gặp phải khi sự
việc “phục sinh/trỗi dậy” quay về phía ông và ông nhận ra được sự việc ấy. Dù,
thánh-nhân có nghĩ đến chuyện “không thể thực hiện được”, ta cũng đừng nên hiểu
là ông đã chuẩn bị để Đức-Chúa-Phục-sinh đã “hiện ra” với ông đi chăng nữa, thì
ông cũng không kỳ vọng là Ngài sẽ làm như thế. Có lẽ, ông kỳ vọng vào chuyện
ngược lại. Đây, có thể coi như phương pháp trị liệu tính tự-mãn-nguyện với hình
hài/xác thể đại loại như Narcisse vẫn có thể xảy đến với những ai muốn làm thế.
Và, điều này lại đã lay chuyển tính khí có thể có như kiểu Narcisse ở
thánh-nhân, tức rời khỏi hiện hữu. Đây, còn là khí-phách thể-hiện một tình tiết
rất hệ trọng.
Vậy
thì, những gì xảy đến vào dịp Phục Sinh rõ ràng là Đức Kitô đã trỗi-dậy. Ở đây,
tôi dùng danh xưng “Đức Kitô” theo nghĩa khác hẳn bản dịch Do thái có cụm từ
“Mêsia”, tức Đấng Thiên Sai. Theo tôi, thánh Phaolô cũng đã làm thế. Tức, ông
cũng nghĩ rằng: Đức Giêsu ngưng không còn là Đấng Mêsia trong một thời gian rất
ngắn trước khi Ngài chết đi và sống lại. Tôi sử dụng danh xưng “Đức Kitô” như
“mật khẩu” thấy có trong truyền thống của người Đạo Chúa vẫn tin vào Đức Giêsu.
Tin rằng: một khi đã phục-sinh/trỗi dậy rồi, Đức Giêsu lại trở thành nơi chốn
hoặc khu vực liên hệ với tất cả chúng ta không như hồi-ức hoặc cảm-hứng. Nhưng
Ngài đã trở thành đất miền cho người Đạo Chúa ngụ cư, thật thoải mái. Ngài là
Đấng vẫn cư ngụ ở nơi ta. Và, trong ta. Ngài vẫn là con người như tự bao giờ,
nhưng rồi ra sẽ không còn là cá thể/nhân vật như trước đây Ngài từng là. Ngài
thực thi nhân cách của riêng Ngài trong thần hồn và xác thể của mọi người, và
trong cả cuộc sống có sẻ san với ta, như tín hữu rất tin vào Ngài.
Phục
sinh/trỗi dậy đã làm Ngài tăng trưởng trong ta và làm cho tất cả chúng ta được
tăng trưởng ở nơi Ngài là Đấng đã phục sinh/trỗi dậy mà hướng về Cha. Không hề
có xác-thể chết chóc rất khô cứng dùng để ấn định một tưởng nhớ về người nào đó
đã đi vào quá khứ. Mộ phần người chết, chỉ là nơi tạm cư được thuê mướn có đá
tảng dùng làm nắp đậy. Chỉ có sự sống là khác biệt, không xác định được và cũng
không hạn chế lằn ranh để ta có thể “liên hệ” với Ngài trong Đức Kitô. Đức
“Kitô” đây luôn có ý nghĩa đầy đặn và hiện đại nhất. Ngài tuỳ thuộc bất cứ hiện
tại nào đang hiện hữu. Do có thiếu hụt vì sự chết, ta không thể “thấy” được sự
việc này sẽ ra sao: nên ta cần đến cung-cách mới để hiểu biết, và có thể là:
sau khi chết đi, ta mới “thấy” được thế. Chuyện này, không hoàn tất sự hội
tụ/kết hợp, nhưng khiến cho việc ấy có thể “thấy” được. Chỉ khi nào điều ấy
được “thấy” thì mục đích Thiên Chúa tạo dựng mọi vật, mới diễn bày cách trọn
vẹn và đi vào hiện thực.
Trong
khoảnh khắc rất đặc biệt, việc Đức Giêsu biến đổi hình thể thành Đức Kitô, toàn
bộ việc “thấy được” như thế mới hiện hữu nơi Đức Giêsu. Từ khoảnh khắc đó, Ngài
mới là Đức Kitô sống động; và, theo đúng nghĩa, mới thành hiện thực trong toàn
bộ vũ trụ, khiến cho sự việc phục sinh/trỗi dậy được “thấy” nhiều hơn. Nhưng
nước mắt và cơn hấp hối cũng như mồ hôi máu của Ngài, đã để lại những dấu vết
khó tẩy xoá nơi Ngài và trên hình hài “đất-miền Kitô” ấy. Cuộc sống rất mới của
Ngài được đánh dấu bằng sự sống Ngài cho đi. Đó là lý do khiến Ngài có thể và
rất thực tế để đến với ta và hỗ trợ ta.
Trong
cuộc sống rất mới của Ngài, việc Chúa chịu đóng đinh vào thập giá cách mãn đời,
để lại dấu ấn trên ta –để ta vào được sự Phục sinh của chính ta.
(còn
tiếp)
-----------------------
Lm
Kevin O’Shea CSsR
Mai
Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment