Friday 1 July 2016

Gs Geza Vermes: DIện Mạo Đức Giêsu: Truyện kể về cái chết của Đức Giêsu (Bài 45)


Chương 6

Đức Giêsu của Tin Mừng Nhất Lãm,

Đấng Chữa lành,

Bậc Thày Dạy đầy lôi cuốn,

Đấng tạo hưng-phấn rất Khải-huyền.

(Bài 45)

 

 

 

Truyện kể về cái chết

của  Đức Giêsu

 

 

Việc triệt-hạ Đức Giêsu đưa đến chỗ chết, được hoạch-định và thực-hiện theo cách không thể bãi bỏ, ở Giêrusalem. Việc can-thiệp của vị thượng-tế và giới-chức vây quanh ông đã khiến ông phải nhúng tay vào, là vì có rắc-rối do Đức Giêsu tạo ra cho đám con-buôn ở Đền Thờ. Vào khi ấy, Ngài lật úp bàn tiền mà các nhà buôn chuyên đổi ra tiền thật bằng bạc, đúc từ thành Tyr để dâng/cúng Hội-đường. Ngay đến, các quầy/sạp của đám thương-gia buôn thú đem tế-sát cũng bị loại bỏ, thể theo Tin Mừng Nhất Lãm đã trính-thuật:

 

-Ở Tin Mừng Mác-cô đoạn 11 câu 18 có đoạn viết:

 

“Các thượng-tế và kinh-sư nghe vậy, bèn tìm cách giết Đức Giêsu. Quả thế, họ sợ Ngài, vì cả đám đông đều rất đỗi ngạc-nhiên về lời giảng-dạy của Ngài.”

 

-Và, Tin Mừng Luca đoạn 19 câu 47, cũng thấy ghi:

 

“Hằng ngày, Ngài giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Ngài, cả các thân hào trong dân cũng thế.”

 

Rồi đến Tin Mừng Máccô đoạn 14 câu 1, còn nói rõ:

 

“Hai ngày trước lễ Vượt Qua và trước lễ Bánh Không Men, các thượng-tế và kinh-sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu mà giết đi;”

 

Trong khi đó, Tin Mừng Mátthêu đoạn 26 câu 3 lại đã chép:

 

“Lúc ấy, các thượng-tế và kỳ- mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng-tế tên là Caipha;”

 

Ngay đến Tin Mừng Luca đoạn 22 câu 2, cũng chép rằng:

 

“Các thượng-tế và kinh-sư tìm cách thủ-tiêu Đức Giêsu, vì họ sợ dân…”

 

Thêm vào đó, ta được bảo, là: theo các thượng-tế, Giuđa Iscariốt đã bội-phản Đức Giêsu, như Tin Mừng Nhất Lãm còn minh-xác:

 

Và Tin Mừng Máccô đoạn 14 câu 10, cũng thấy nói:

 

“Giuđa Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng-tế để nộp Ngài cho họ.”

 

-Trong khi đó, Tin Mừng Mátthêu đoạn 26 câu 14-15, rày viết:

 

“Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariốt, đi gặp các thượng-tế mà nói: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu." Họ quyết-định cho hắn ba mươi đồng bạc.”

 

Và Tin Mừng Luca đoạn đoạn 22 câu 3-24, cũng chép rằng:

 

Xatan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn đi nói chuyện với các thượng-tế và lãnh-binh Đền Thờ về cách-thức nộp Ngài cho họ. Họ rất mừng và đồng-ý sẽ cho hắn tiền. Hắn ưng-thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông.

 

Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giêsu sai ông Phêrô với ông Gioan đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua." Hai ông hỏi: "Thầy muốn chúng con dọn ở đâu?" Ngài bảo họ: "Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, thì các anh vào thưa với chủ nhà: "Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang-bị: các anh hãy dọn ở đó." Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Ngài đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

 

Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Ngài. Ngài nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa."

 

Rồi Ngài nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Triều-Đại Thiên-Chúa đến."

 

Rồi Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Ngài cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.

 

"Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người." Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy. Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất”

 

Và họ là đám người chịu trách-nhiệm bắt giữ, ra câu hỏi và giao Ngài cho Philatô, như đã viết ở:

 

-Tin Mừng Mác-cô đoạn 15 câu, sau đây:

 

“Vừa tảng sáng, các thượng-tế đã họp bàn với các kỳ-mục và kinh-sư, tức toàn-thể Thượng Hội-Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.” 

 

Rồi, Tin Mừng Mátthêu từ đoạn 26 câu 47 đến đoạn 27 câu 2, cũng thấy chép:

 

Ngài còn đang nói, thì Giuđa, một người trong nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với hắn, có cả một đám người đông-đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng-tế và kỳ-mục trong dân sai đến. Kẻ nộp Ngài đã cho họ một dấu hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!" Ngay lúc đó, Giuđa tiến lại gần Đức Giêsu và nói: "Rábbi, xin chào Thầy!", rồi hôn Ngài. Đức Giêsu bảo hắn: "Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi! " Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giêsu. Một trong những kẻ theo Đức Giêsu liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng-tế, làm nó đứt tai. Đức Giêsu bảo người ấy: "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu-cứu với Cha Thầy sao? Ngài sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh-Thánh ứng-nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy." Vào giờ ấy, Đức Giêsu nói với đám đông: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng-dạy ở Đền Thờ thì các ông không bắt. Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng-nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ." Bấy giờ các môn-đệ bỏ Ngài mà chạy trốn hết.

 

Họ bắt Đức Giêsu, rồi điệu đến thượng-tế Caipha. Các kinh-sư và kỳ-mục đã tề-tựu sẵn đó. Ông Phêrô theo Ngài xa xa, đến tận dinh thượng-tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết-cuộc ra sao.

 

Còn các thượng-tế và toàn-thể Thượng Hội-Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử-hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, khai rằng: "Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên-Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại." Bấy giờ vị thượng-tế đứng lên hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Đức Giêsu vẫn làm thinh. Vị thượng-tế nói với Ngài: "Nhân danh Thiên-Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên-Chúa không?" Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Bấy giờ vị thượng-tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân-chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên-Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!"

 

Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài. Có kẻ lại tát Ngài và nói: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên-tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?"

 

Lúc đó ông Phêrô đang ngồi ngoài sân. Một người đầy tớ gái đến bên ông và nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giêsu, người Galilê đó chứ gì?" Ông liền chối trước mặt mọi người mà nói: "Tôi không biết cô nói gì!" Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: "Bác này cũng đã ở với ông Giêsu người Nadarét đấy." Nhưng ông Phêrô lại thề mà chối: "Tôi không biết người ấy." Một lát sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phêrô mà nói: "Đúng là bác cũng thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay." Bấy giờ ông Phêrô liền thề độc mà quả quyết rằng: "Tôi thề là không biết người ấy." Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. Ông Phêrô sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: "Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần." Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.”

 

Cũng hệt thế, Tin Mừng Luca từ đoạn 22 câu 54 đến đoạn 23 câu 1 lại đã bảo:

 

Họ bắt Đức Giêsu, điệu Ngài đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phêrô thì theo xa xa. Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phêrô đến ngồi giữa họ. Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: "Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!" Ông liền chối: "Tôi có biết ông ấy đâu, chị!" Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: "Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng! " Nhưng ông Phêrô đáp lại: "Này anh, không phải đâu!" Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: "Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê." Nhưng ông Phêrô trả lời: "Này anh, tôi không biết anh nói gì!" Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: "Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần." Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.


Những kẻ canh giữ Đức Giêsu nhạo báng đánh đập Người. Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: "Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó?" Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài.


Khi trời sáng, đoàn kỳ-mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Ngài ra trước Thượng Hội Đồn và hỏi: "Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết!" Ngài đáp: "Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. Nhưng từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng." Mọi người liền nói: "Vậy ông là Con Thiên-Chúa sao?" Ngài đáp: "Đúng như các ông nói, chính tôi đây." Họ liền nói: "Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!"
Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giêsu đến ông Philatô;.

 

Ở chương 7 sau đây, chúng ta sẽ bàn về lý-do đích-thực khiến các tay đồ-tể đi đến quyết-định hành-quyết Đức Giêsu. Ở đây, vào lúc này, ta chỉ có thể bảo: Ngài là nạn-nhân vô-tội của các thủ-tục thi-hành lề-luật một cách hấp-tấp hoặc khinh-suất không lý gì đến việc lập phiên toà chính-thức trước Hội-đồng Do-thái-giáo hoặc mở phiên toà đặc-biệt có quan thái-thú La Mã ở Giuđêa làm thượng-thẩm.

 

Tin Mừng Nhất Lãm, lại cũng đưa ra truyện kể về sự/việc tựa hồ như thế khiến nhiều người lầm-lẫn đến rối bời. Đức Giêsu bị bắt ngay sau bữa ăn chiều ngày 14 tháng Nisan, nhưng tác-giả Mác-cô và Mátthêu, lại cứ bảo: họ đem Ngài ra trước Thượng-tế và Hội-đồng Sanhêdrin vào ban đêm, để cáo-buộc Ngài mắc tội “phạm-thượng” dám xưng mình là Đấng Mêsia, Con Thiên-Chúa như có kể:

 

-Ở Tin Mừng Mác-cô đoạn 14 câu 43-64 như sau:

 

Ngay lúc đó, khi Ngài còn đang nói, thì Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. Kẻ nộp Đức Giêsu đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Vừa trờ tới, Giuđa tiến lại gần Ngài và nói: "Thưa Thầy!", rồi hôn Ngài. Họ liền tra tay bắt Ngài. Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.


Đức Giêsu nói với họ: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm." Bấy giờ các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn hết. Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Ngài, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.


Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề tựu đông đủ. Ông Phêrô theo Ngài xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ.


Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Ngài, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Ngài rằng: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm! "Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau.


Bấy giờ vị thượng-tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Đức Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Ngài: "Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Tất cả đều kết án Ngài đáng chết.”

 

Và, Tin Mừng Mátthêu đoạn 26 câu 47-66 cũng thấy viết những lời sau đây:

 

“Ngài còn đang nói, thì Giuđa, một người trong nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với hắn, có cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế và kỳ mục trong dân sai đến. Kẻ nộp Ngài đã cho họ một dấu hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy! " Ngay lúc đó, Giuđa tiến lại gần Đức Giêsu và nói: "Rábbi, xin chào Thầy!", rồi hôn Ngài. Đức Giêsu bảo hắn: "Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!" Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giêsu. Một trong những kẻ theo Đức Giêsu liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai. Đức Giêsu bảo người ấy: "Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Ngài sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy." Vào giờ ấy Đức Giêsu nói với đám đông: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông không bắt. Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ." Bấy giờ các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn hết.




Họ bắt Đức Giêsu, rồi điệu đến thượng tế Caipha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn đó. Ông Phêrô theo Ngài xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.

Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian.

 

Sau cùng, có hai người bước ra, khai rằng: "Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại." Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Đức Giêsu vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Ngài: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?" Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến."

 

Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!"

 

Tác-giả Gioan lại đem vụ kiện này đưa về trước những 24 tiếng đồng-hồ, bằng cách loại-bỏ bữa ăn chiều vào Lễ Vượt Qua, cốt né-tránh vấn-đề tuyên-án và đóng đinh tội-phạm Giêsu vào ngày Đại lễ.

 

Nói thực-tế, thì: mọi chi-tiết nơi tuồng/truyện Thương Khó ở Tin Mừng Nhất Lãm lại xung-khắc cả về qui-tắc lập thủ-tục có thật đối với bất kỳ luật-lệ nào thuộc Do-thái-giáo được biết đến. Theo luật thì, không ai được phép mở phiên-toà vào ban đêm, đó là chưa nói đến chuyện xảy ra vào đêm Vượt Qua. Và, cũng không cần suy xét xem lời Đức Giêsu nói có là phạm-thượng hay không.

 

Thêm nữa, các nhà lãnh-đạo tối-cao Do-thái-giáo không giải-thích gì thêm, và đã tống-khứ Đức Giêsu dù Ngài bị cáo buộc về tội “phạm-thượng” giải lên quan tổng-trấn Philatô với tội-danh đã định trước, là quấy phá về chính-trị hoặc tội có ý-định làm vua. Một lần nữa, lúc ấy chỉ diễn ra mỗi buổi xét xử phúc-thẩm cách sơ-sài chứ không phải là buổi xử án đúng thực của La Mã.

 

Cuối cùng, lại kết-thúc bằng việc quan Phongxiô Philatô tuyên án chết cho Đức Giêsu và thi-hành án bằng việc bắt Ngài chết trên thập-giá của La Mã như trình-thuật kể lại cách tỉ-mỉ ở:

 

-Tin Mừng Máccô đoạn 15 câu 1-37, như sau:

           

“Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.

Ông Philatô hỏi Ngài: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Ngài trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Ngài: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Đức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.



Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Baraba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Ngài. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Baraba thì hơn. Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!"

 

Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Ngài cho họ đóng đinh vào thập giá.
Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài. Rồi chúng bái chào Ngài: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Ngài, khạc nhổ vào Ngài, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Ngài mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Ngài đi để đóng đinh vào thập giá.


Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Ngài lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ.
Chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài, nhưng Ngài không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Ngài là giờ thứ ba. Bản án xử tội Ngài viết rằng: "Vua người Do-thái". Bên cạnh Ngài, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Ngài bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.)


Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê! mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Ngài như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Ngài.


Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín.34 Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama xabácthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Êlia." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Ngài uống mà nói: "Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không." Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.”

 

Và, Tin Mừng Mátthêu đoạn 27 câu 11-50 cũng đã viết:

 

“Đức Giêsu bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Ngài: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Đức Giêsu trả lời: "Chính ngài nói đó." Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Ngài, thì Ngài không trả lời một tiếng. Bấy giờ ông Philatô hỏi Ngài: "Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.


Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn. Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Baraba. Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Philatô nói với họ: "Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài.


Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy."


Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Đức Giêsu. Tổng trấn hỏi họ: "Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người?" Họ thưa: "Baraba!" Tổng trấn Philatô nói tiếp: "Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây?" Mọi người đồng thanh: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Tổng trấn lại nói: "Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!" Toàn dân đáp lại: "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Baraba cho họ, còn Đức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá.

 

Bấy giờ lính của tổng trấn đem Đức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài một tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Ngài mà nhạo rằng: "Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!" Rồi chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Ngài đi đóng đinh vào thập giá.


Đang đi ra, thì chúng gặp một người Kyrênê, tên là Simôn; chúng bắt ông vác thập giá của Ngài. Khi đến nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Đồi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Đóng đinh Ngài vào thập giá xong, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Ngài.


Phía trên đầu Ngài, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: "Người này là Giê-su, vua dân Do-thái." Cùng bị đóng đinh với Ngài, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.

 

Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!" Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Israel! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Ngài cứu hắn đi, nếu quả thật Ngài thương hắn! Vì hắn đã nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Ngài như thế.


Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êli, Êli, lêma xabácthani", nghĩa là "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Hắn ta gọi ông Êlia!" Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Còn những người khác lại bảo: "Khoan đã, để xem ông Êlya có đến cứu hắn không!" Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.”

 

Cuối cùng, Tin Mừng Luca đoạn 23 câu 2-46 cũng đã chép:

 

“Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: "Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mêsia, là Vua nữa." Ông Philatô hỏi Ngài: "Ông là Vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó." Ông Philatô nói với các thượng tế và đám đông: "Ta xét thấy người này không có tội gì." Nhưng họ cứ khăng khăng nói: "Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến đây." Nghe nói thế, ông Philatô liền hỏi xem đương sự có phải là người Galilê không. Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hêrôđê, ông liền cho áp giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giêrusalem.

 

Vua Hêrôđê thấy Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Ngài. Vả lại, vua cũng mong được xem Ngài làm một hai phép lạ. Nhà vua hỏi Ngài nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Ngài dữ dội. Vua Hêrôđê cũng như thị vệ đều khinh dể Ngài ra mặt nên khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Ngài lại cho ông Philatô. Ngày hôm ấy, vua Hêrôđê và tổng trấn Philatô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.

 

Bấy giờ ông Philatô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại mà nói: "Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra." Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô phải phóng thích cho họ một người tù. Nhưng tất cả mọi người đều la ó: "Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi!" Tên này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người.


Ông Philatô muốn thả Đức Giêsu, nên lại lên tiếng một lần nữa. Nhưng họ cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!" Lần thứ ba, ông Philatô nói với họ: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra." Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.


Ông Philatô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giêsu thì ông trao nộp theo ý họ muốn.

 

Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu. Dân chúng đi theo Ngài đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: "Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: "Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!" Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi! , và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi!31 Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?" Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.


Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái.34 Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.

 

Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!" Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!" Phía trên đầu Ngài, có bản án viết: "Đây là vua người Do-thái."

 

Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!" Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!" Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."


Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.”

 

Tin Mừng Nhất Lãm lại đã kể rằng sau khi bắt giữ Đức Giêsu, các môn-đồ đều bỏ Ngài và chạy trốn hết, như Tin Mừng Máccô đoạn 14 câu 50 và Tin Mừng Mátthêu đoạn 26 câu 56 cũng đã nói ở trên. Ngoại trừ ông Phêrô là vẫn dõi theo Ngài đến dinh Thượng-tế. Tuy nhiên, dù ông đã chối bỏ Đức Giêsu khi bị người tớ gái gạn hỏi ở sân sau đến nỗi ông đã phải chối bỏ mọi giây nối-kết với Ngài, như Tin Mừng Máccô đoạn 14 câu 66-71 lại đã viết:

 

Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê! " Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc-địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Đức Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.”    

 

Cả đến Tin Mừng Mátthêu đoạn 26 câu 69-74 cũng thấy nói:

 

Lúc đó ông Phêrô đang ngồi ngoài sân. Một người đầy tớ gái đến bên ông và nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giêsu, người Galilê đó chứ gì?" Ông liền chối trước mặt mọi người mà nói: "Tôi không biết cô nói gì!" Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: "Bác này cũng đã ở với ông Giêsu người Nadarét đấy." Nhưng ông Phêrô lại thề mà chối: "Tôi không biết người ấy." Một lát sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phêrô mà nói: "Đúng là bác cũng thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay." Bấy giờ ông Phêrô liền thề độc mà quả quyết rằng: "Tôi thề là không biết người ấy." Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. Ông Phêrô sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: "Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần." Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.”

 

Và, Tin Mừng Luca đoạn 22 câu 54-60 lại cũng chép:

 

Họ bắt Đức Giêsu, điệu Ngài đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phêrô thì theo xa xa. Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phêrô đến ngồi giữa họ. Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: "Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!" Ông liền chối: "Tôi có biết ông ấy đâu, chị!" Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: "Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!" Nhưng ông Phêrô đáp lại: "Này anh, không phải đâu!" Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: "Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê." Nhưng ông Phêrô trả lời: "Này anh, tôi không biết anh nói gì! " Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy.

 

Cuối cùng thì, chỉ một nhóm các nữ-phụ người Galilê ở lại với Đức Giêsu đến phút cuối, và “từ nơi xa” các bà đã xem chừng Ngài chết đi, như trình-thuật Nhất Lãm đã ghinhư :

 

-Ở Tin Mừng Máccô đoạn 14 câu 40-41, đã từng viết:

 

Nhưng cũng có mấy phụ-nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Mari-a mẹ các ông Giacôbê Thứ và Giôxết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Ngài còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Ngài lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó.   

 

Và, Tin Mừng Mátthêu đoạn 27 câu 55-56, lại cũng ghi:

 

Ở đó, cũng có nhiều người phụ-nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê để giúp đỡ Người. Trong số đó, có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê và Giôxếp, và bà mẹ các con ông Dêbêđê.” 

 

Cuối cùng thì, sự việc lại được trao cho một người trước đó không ai nhắc nhở tới là ông Giuse làng Arimathêa vội thi-hành công-tác đặt thi-thể Đức Giêsu vào mộ đá trước khi mặt trời lặn, trong khi bà Maria Mácđalêna và các nữ-phụ khác âm-thầm nhìn dõi theo. Chuyện này, cũng được các Tin Mừng thuật lại như

 

-Tin Mừng Máccô đoạn 15 câu 42-47, ghi rất rõ:

 

Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày sabát nên ông Giuse tới. Ông là người thành Arimathêa, thành viên có thế giá của hội-đồng Do-thái-giáo, và cũng là người vẫn mong đợi Triều-Đại Thiên-Chúa đến. Ông đã mạnh-dạn đến gặp tổng-trấn Philatô để xin thi-hài Đức Giêsu. Nghe nói Ngài đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc-nhiên, và cho đòi viên đại-đội-trưởng đến, hỏi xem Ngài đã chết lâu chưa. Sau khi nghe viên sĩ-quan cho biết sự việc, tổng-trấn đã cho ông Giuse lãnh thi hài. Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải ấy liệm Ngài lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Mácđala và bà Maria mẹ ông Giôxết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Ngài.”

 

Trong khi đó, Tin Mừng Mátthêu đoạn 27 câu 57-61, cũng có viết:

 

Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathêa, tên là Giuse, và cũng là môn đệ Đức Giêsu. Ông đến gặp ông Philatô để xin thi-hài Đức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi-hài cho ông. Khi đã nhận thi-hài, ông Giusep lấy tấm vải gai sạch mà liệm, và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về. Còn bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria ở lại đó, quay mặt vào mồ.”

 

Và, Tin Mừng Luca đoạn 23 câu 50-53 lại cũng ghi:

 

Khi ấy có một người tên là Giuse, thành viên của Thượng-Hội-Đồng, một người lương-thiện, công chính. Ông đã không tán-thành quyết-định và hành-động của Thượng Hội-Đồng. Ông là người thành Arimathêa, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. Ông đến gặp tổng-trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Ông hạ xác Ngài xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Ngài vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ.”

 

Đến ngày thứ ba, tảng sáng ngày Chúa Nhật, lại cũng hai hoặc ba nữ-phụ được kể (mà theo Tin Mừng Máccô thì nữ-phụ thứ ba này là bà Salômê) đã mang sẵn dầu xức và bột thơm để hoàn-tất nghi-thức chân-cất người Thày của các bà nay đã mất. Bằng vào kinh-nghiệm của các bà tại mộ-phần lại mở ra trình-thuật Nhất Lãm về sự sống vào đời sau của Đức Giêsu.

 

                                                                                    (còn tiếp)

 

 

Gs Geza Vermes biên-soạn,

Mai Tá lược-dịch.    

 

             

 

No comments: