Tuesday, 15 March 2016

Phạm Minh Tâm : Phượng-hoàng đã sải cánh bay



 
            Khi vừa nhận được tin linh-mục Vũ Khởi Phụng từ-trần hồi 21 giờ ngày Thứ Tư 02-3-2016 tại Tu-viện Thái-hà - Hà-nội, tôi thật bình-tĩnh trong lời thầm nhủ là ngày giờ phải đến thì đã đến thôi. Song rồi tiếp sau đó là bắt đầu thấy bâng-khuâng với một cảm-giác hụt-hẫng và mất-mát cứ thấm dần, thấm dần. Nhất là sau khi nhìn qua một số hình ảnh đầu tiên tại tu-viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái-hà khi ông mới ra đi. Người đi vừa thoát hết hệ-lụy, nằm đó thanh-thản như còn say trong giấc ngủ muộn nhưng nhìn những người ở lại đang đứng vây quanh sao lòng thấy bùi-ngùi, se-thắt.

Cha con một thuở là đây, thầy trò duyên nợ cũng còn đây và anh em một đời gắn-bó trong ân-tình và tín-nghĩa cũng chỉ còn những phút này đây. Rồi từ đấy những hồi-ức cứ từ-từ quay ngược về quá-khứ đã bắt tôi đặt bút viết những dòng hoài-niệm này.

Viết… thay cho nén hương bái-biệt.

Cuộc đời có nhiều chuyện tình-cờ đến mà người ta thường gọi nó là duyên. Và tuy chỉ có một chữ duyên đơn-giản song lại gói-ghém biết bao nhiêu ý tình để nhờ đó mà đời người có những liên-hệ làm thành mối tương-quan cảm-thông trong tình thân-hữu, thân-thiết trong nghĩa đệ-huynh hoặc gắn bó bằng tâm-linh giao-cảm.

Nhớ lại, một ngày  nào đó năm 1980, tôi  đi lễ chiều ở nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp vì nhà tôi muốn tìm một linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế giải-tội và lại còn nhờ tôi góp ý chọn giúp một vị nào đó trong những linh-mục tôi đã quen hoặc biết ở đấy. Tôi lừng-khừng trả lời rằng linh-mục nào chẳng có đủ bảy chức thánh, chẳng được trao ban và uỷ-thác cho năng-quyền tha tội…Để Chúa chỉ cho. Vậy là nhà tôi xăm-xăm đi vào phòng khách nhà dòng, còn tôi ngồi lại chờ trước núi đá Đức Mẹ.

Khoảng hai mươi phút sau, cha Phụng và nhà tôi từ trong cửa phòng khách nhà dòng bước ra, quẹo phải và song-song chậm bước đi vòng theo khu sân trước nhà dòng, đi tiếp ngang qua mặt tôi để về phía phòng thánh rồi lòng-vòng đâu đó một hồi thật lâu nữa mới trở lại. Tôi vội đứng lên, ông bắt tay tôi rồi chào từ-biệt sau khi nhắc với nhà tôi ngày giờ họ đã hẹn gặp lại.

 Nhà tôi nét mặt rạng-rỡ, nhẹ-nhàng kể-lể là đang đứng lớ-ngớ trước cửa phòng khách thì gặp lúc cha Phụng vừa tiễn khách về đang quay vào, bèn lại gặp. Rồi vào phòng khách xưng tội và sau đó cùng nhau đi lòng-vòng để nghe cha chia sẻ về một số cảm-nghiệm tâm-linh. Và nhà tôi kết-luận là cha có cách nói chuyện rất “người”, không bị ảnh-hưởng bởi cái chủ-quan thường có nơi các giáo-sĩ; nhất là khi làm “cha giải tội” thì chỉ giảng và dạy. Cha Phụng giải tội mà như một người bạn tâm-linh, muốn ủi-an nâng đỡ hơn là làm cho xong một thủ-tục, một trách-vụ. 

Từ đó, nhà tôi có vẻ “mê” ông, hay ghé thăm chuyện trò, lại còn rắc-rối thắc-mắc là sao ngay từ thời sinh-viên tôi cũng hay tới lui sinh-hoạt và lễ lạy ở nhà thờ Kỳ-đồng, đã quen biết các linh-mục, tu-sĩ  tại đấy như cha Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Đình Trị, Phạm Gia Thụy…chẳng hạn, mà sao lại không quen cha Vũ Khởi Phụng thì tôi chỉ trả lời gọn lỏn và ngang chành là tại không có duyên.

Thực ra thời vào gian ấy, cha Phụng mới chịu chức, rất trẻ-trung và được rất nhiều người ái-mộ vây quanh. Thỉnh-thoảng tôi cũng gặp ông tại phòng làm việc của cha Chân Tín, của Nguyễn Ngọc Lan…và dù vẫn có chào hỏi đủ lễ nhưng không hiểu sao tôi lại không thích nhập vào cái đoàn rồng rắn lúc nào cũng tíu-tít rộn-ràng ấy.

Rồi bỗng dưng từ một nhu-cầu tâm-linh của nhà tôi mà đã mở ra một mối thân-tình cho đến nay.

Độ ấy, tại nhà thờ Giáo-xứ Đức Mẹ Hằng Cứu-giúp, Thánh-lễ tám giờ mỗi sáng Chúa-nhật thường do linh-mục Phạm Gia Thụy phụ-trách và Thánh-lễ 6 giờ 30 chiều do linh-mục Vũ Khởi Phụng phụ-trách. Gia-đình tôi chọn đi lễ tám giờ sáng vì tôi thích nghe cha Thụy giảng trong phong-cách mà người nghe có cảm-tưởng như ông đang trải-nghiệm những suy-tư tâm-linh của chính đời mình.

Thế nhưng bây giờ đành phải nhường, đổi sang lễ 6 giờ 30 chiều để nhà tôi nghe cha Phụng giảng mà theo anh thì tự nhiên như chia sẻ tâm-tình. Tôi chỉ biết lẩm-bẩm với chính mình rằng để xem chia-sẻ được bao lâu và tự hứa sẽ chú tâm nghe để còn đem sợi tóc ra chẻ cho vui.

 Thú thực, thời-gian đầu tôi không thích lắm cách giảng của cha Phụng với văn-phong chữ nghĩa mà tôi cho là hơi bóng-bảy và có chút “làm dáng” khi diễn ý. Tuy thế tôi đã bắt đầu thầm phục ông về thái-độ luôn chủ-động trong khi diễn giảng, luôn ý-thức về những gì mình đang nói. Lại còn rất nhanh khi cần tự-động chuyển ý nội-dung diễn-tả để ứng-đối cho kịp tình-huống bất ngờ nào đó thật uyển-chuyển mà người nghe có thể vẫn nghĩ như là có soạn sẵn.

Có lần, chỉ một đoạn Tin Mừng mà các tác-giả Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca ghi rất gọn sự việc Chúa chữa cơn bệnh nhức đầu cho bà mẹ vợ ông Phê-rô thôi mà cha Phụng thao-thao trên toà. Tôi nghĩ có thể nhiều người chẳng hiểu hết hay nắm bắt được bao nhiêu ý-nghĩa nhưng đã vẫn lắng nghe theo bài-bản và thật mát tai với ý mới được diễn giảng về những điều ông gọi là “cơn cảm cúm và váng-vất tâm-linh”.

Lễ xong, chúng tôi đến trước cửa phòng thánh gặp ông. Do vẫn quen với việc chúng tôi thường hay góp chút ý này, ý khác để chia sẻ sau những lần nghe giảng nên cha Phụng hỏi chúng tôi ngay về bài giảng vừa rồi ra sao. Vì mối tương-quan giữa chúng tôi lúc đó đã đủ thân-thiết và tự-nhiên nên tôi nói ngay là cứ như bánh phồng tôm. Ông thẳng-thắn thú nhận là vì vừa đi giảng ở ngoài về, lại thấy nội-dung gọn-gàng quá nên không soạn trước và ông cười nói với nhà tôi rằng, đồng ý là bánh phồng tôm tuy không bổ, không no nhưng lâu lâu ăn một lần kèm theo các món khác thì cũng thêm hương-vị, nhất là sự giòn-giã của nó, thì cũng đâu phải sợ bị lạc-điệu.

 Một dịp trao-đổi khác, tôi rất cực-đoan đòi hỏi rằng Thần-khí Đức Ki-tô trao ban và sự sáng của Thánh-linh soi dẫn để đâu mà khi người ta làm bậy, nhất là các đấng bậc, thì lại đổ cho ma quỷ cám-dỗ hoặc là những phút yếu lòng. Đấy là cách nói ăn gian và đổ vấy …Cha Phụng bảo tôi nếu không thích kiểu ăn gian và đổ vấy như thế thì nói cách khác vậy…chẳng hạn như là Chúa Thánh-linh đi vắng chốc lát hay đi vắng thường-xuyên. Lại một lần, trong dịp gặp mặt “bỏ túi” tại nhà, có cả linh-mục Thiện Cẩm cũng là một thân-hữu chí-thiết của gia-đình, sau bữa ăn tôi vừa gọt xoài vừa rào đón là rất ngại mua loại trái cây này vì không biết chua ngọt ra sao. Cha Thiện Cẩm bảo nếu sợ chua thì đừng ăn xoài mà đổi sang đu-đủ đi, còn cha Phụng nói ngay là pha ly nước đường uống là chắc nhất…

Đại-khái những cái kiểu nói “chuyện chẳng ra chuyện” mang ngôn-ngữ đời thường và không cầu-kỳ này thường là nội-dung của các dịp trò chuyện mà có thể nhiều người sẽ gọi là chuyện huề vốn. Với tôi lại khác, tôi thấy mình có lời khi bắt buộc phải thêm nhiều suy-nghĩ để tự-thân rà lại tính quá-khích và cực-đoan của mình trong tâm-linh cũng như ngoài cuộc sống; về đạo cũng như với đời…

Tuy-nhiên, cái cơ-duyên tâm-linh dẫn đến tương-quan bằng-hữu này không phải lúc nào cũng đơn-giản như vị chua của xoài, vị ngọt của đu-đủ hay của ly nước đường.  Chẳng hạn trong những dịp cùng phân-tích, trao đổi về dội-dung hay bình-phẩm về các nhân-vật trong một số sách ông cho tôi mượn về đọc như  Sous le soleil de satan, Les Grands Cimetières sous la Lune  và Journal d'un curé de campagne của  Georges Bernanos; L'Avocat du diable  của Morris West hay La saison des pluies của Graham Greene… thì lại toàn là “lý sự” khô-khan và gai-góc với một số cách nhìn cuộc sống được phản-ảnh qua các nội-dung câu chuyện. Có điều, cũng nhờ đó tôi nhận ra rằng bằng tâm-thức của một nhà tu hoà với chất văn-chương và nghệ-thuật trong di-truyền, linh-mục Vũ Khởi Phụng đã tạo cho người chung quanh hay thân-cận dễ tìm được nơi ông phong-độ của một hiền-nhân đầy tình người nhẹ-nhàng, dễ làm cho người khác thấy được cảm-thông hơn là một quyền-uy chỉ dùng lý-tính để cột buộc. Đôi khi, dựa vào mối thân-tình sẵn có, chúng tôi đùa vui nói là hèn chi ông có làm cao lắm cũng chỉ đến Phó Giám-tỉnh chứ không bao giờ “dám” tỉnh. 

Lần đầu chúng tôi đến căn nhà ở trong khu trại Bùi-phát thăm hai cụ thân-sinh của cha Phụng từ Hà-nội vào là dịp người em trai út của ông vừa ở trại tù cải-tạo về. Khi cụ ông Vũ Thế Hùng vừa giới-thiệu anh Vũ Đằng Giao, tôi buột miệng đọc câu văn trong bài tự Đằng-vương các của Vương Bột, danh-sĩ thời nhà Đường bên Tầu: Đằng-giao khởi-phụng, Mạnh học-sĩ chi từ tông (Giao-long vượt cao, phụng-hoàng nổi dậy; đó là tài-hoa của Mạnh học-sĩ, ông tổ của từ chương - Trần Trọng San dịch) thì cụ ông đọc ngay câu kế tiếp Tử-điện thanh-sương, Vương tướng-quân chi võ-khố (tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết-tháo của Vương tướng-quân). Rồi sau những lời chào hỏi với hai cụ, với chị Phụng-Anh và anh Giao xong, cụ ông trở lại ngay bài tự Đằng-vương các với thắc-mắc là xưa nay, câu được nhiều người coi như tuyệt-bút trong bài văn viết theo thể “tự” này là câu Lạc-hà dữ cô-vụ tề phi. Thu-thuỷ cộng trường-thiên nhất sắc (Ráng chiều rơi và con cò cô độc cùng bay; nước sông mùa thu nhập với bầu trời thành chung một mầu) mới phải chứ. Tôi thưa với cụ là vì thuộc cả bài nên vừa nghe hai “tên tuổi” trong nhà thì nhớ đến và chắc không ra ngoài ý này. Cụ cuời thay cho lời xác-nhận.

Thế là ngay trong buổi sơ-kiến, nội-dung thăm hỏi thì ít mà cùng tâm-đắc về văn-chương đạo-học Đông-phương thì nhiều. Tôi phải khai thêm lý-lịch là trước 30-4-1975 đã học Văn-chương Việt Hán ở Đại-học Văn-khoa Sài-gòn như muốn gián-tiếp “khoe” với hai cụ cái nếp đào-tạo của nền học-thuật tại Miền Nam Việt-Nam.

Từ đó, mỗi thời-gian hai cụ ở Sài-gòn thì chúng tôi hay tới lui thăm hỏi và nghe chuyện văn-chương, chuyện về chốn cũ người xưa của đất cố-đô. Trong câu chuyện, nếu như cha Phụng có được nhắc đến thì cả hai cụ cũng chỉ dùng tên trống không để gọi… Phụng thế này, Phụng thế nọ. Còn với chị Phụng-Anh và anh Giao thì có thêm chữ “ông”.

Năm 1987, tôi có dịp ra Hà-nội. Cả hai cụ niềm-nở chuyện trò khi tôi đến thăm và cụ ông ân-cần bảo tôi …“cô đi vào Nam lúc còn quá nhỏ, cho nên bây giờ dù có thông-kim bác-cổ cũng chưa đủ nếu không biết gì thêm về Thăng-long ngày trước. Tôi tình-nguyện làm người hướng-dẫn cô đi ngược về cái thuở còn núi Nùng, sông Tô-lịch…”. Sáng sớm ngày hẹn, cụ từ đường Trần Hưng Đạo đến đón tôi ở phố Hàng Ngang. Người chị dâu trưởng-tộc của gia-đình tôi đem hết chút di-sản ngàn năm văn-vật trước 1954 còn rơi rớt lại ra dùng đón cụ. Hai cụ con vừa ra khỏi nhà là cụ khen bà chị dâu tôi rối-rít. Tôi phụ-chú là ở ga Hàng Cỏ có bao nhiêu băng nhóm và nói bao nhiêu thứ tiếng là chị con thông-thạo hết đấy. Cụ nói bằng giọng xót-xa… “Xã-hội này nó bắt con người phải ra như thế cô ạ. Tôi khen là chị ấy còn giữ được, chứ bây giờ người ta ứng-xử và giao-tế bằng thứ ngôn-ngữ thô-lậu cứ như dân chợ búa thôi”…

Lần đó, tôi được cụ đưa đi thăm chốn hành-cung ngày xưa của các vua nhà Lê là chùa Trấn-quốc hiện nay; sang Trấn Võ để xem pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ đứng cao sừng-sững hơn ba mét và cái gác ở ngay cổng vào, nhỏ như gác chuông của một ngôi chùa ở nhà quê mà cụ bảo rằng đấy là cái lầu nơi đó các văn-nhân đồng thời ngồi nhìn ra Hồ Tây xướng hoạ, ngâm vịnh. Vào vườn Bách-thảo đứng trên đỉnh núi Nùng bây giờ chỉ còn là cái gò đất. Cụ cũng chỉ cho tôi khu trường Bưởi ngày trước là nơi có một đoạn sông Tô-lịch đã bị lấp mất. Khi về lại trong Nam, tôi nói với cha Phụng “đường gian-nan -  nếu có - cha đã trải qua chưa bằng gang tay so với những tháng năm hai cụ phải hoà vào nhịp sống của xã-hội Miền Bắc mà tuyệt-đại đa-số đã mất gốc văn-hoá và đạo-học của thời hai cụ”.

Năm 2006, tôi còn được gặp hai cụ thêm lần nữa ngoài Hà-nội, tại Thái-hà. Được cùng cụ đọc lại bài Thăng-long thành hoài-cổ của Bà Huyện Thanh-quan với đá trơ gan cùng tuế nguyệt …nước chau mặt với tang thương… và chỉ vạch cho tôi cái tên đường Cổ Ngư vô nghĩa. Theo cụ, con đường gọi là đường Thanh Niên ngày nay, thuở xa xưa là một lối mòn cỏ mọc kín đầu dẫn vào túp lều tranh của một ông già tên là Ngự, chuyên cất vó cá. Người chung quanh vì kính ông cao tuổi nên gọi là cố Ngự. Khi con đường đuợc mở rộng và nối dài ngăn đôi giữa Hồ Tây và hồ Trúc Bạch thì vẫn còn giữ tên cũ Cố Ngự nhưng lại bị đọc trại thành Cổ Ngư.

Các cha Cao Đình Trị và Phạm Gia Thụy ngạc-nhiên thấy tôi thân với cha Phụng. Theo hai vị thì cách nhìn sự việc của cha Phụng và tôi không giống nhau. Mà cũng đúng, tôi thấy ông nhiều khi như hơi luộm-thuộm, ba phải; các lằn ranh nào ông cũng đứng giữa. Còn ông thì phê tôi lúc nào cũng “jongler avec des concepts”. Tôi tự dịch ngay cho ông nghe và giải-thích là dịch không cần hay hoặc chính-xác mà chỉ cần đúng ý của người nói; đó là “nhảy như con loi-choi với các định-kiến”. Ông cũng bảo tôi rằng chữ nghĩa rất hiền-hoà và vô-tư mà sao cô dùng nó thì cứ như những lưỡi dao, những mũi kim sắc nhọn. Tôi trả lời là vì không đi tu, lại càng không phải một “rédemptorist”.

Có điều, tuy cứ mở miệng là “đốp chát” nhưng tôi cũng nhận ra sự đáng quý nể nơi cha Phụng là cái tâm hiền-hoà, cái tinh-thần khó nghèo và kiêm-ái trong nếp sống đơn-sơ cần thiết của một bậc tu-trì. Quanh năm suốt tháng chỉ đi xe đạp. Nghe đâu cũng có lúc đeo đồng-hồ, nhưng đã gỡ ra cho “đệ-tử” đem bán lấy tiền giúp người nghèo rồi không chịu đeo lại, dù có nhiều người - trong đó có cả nhà tôi - cứ gạ-gẫm mua tặng cái khác. Cha Trị cản đừng mua vì có đeo rồi cũng gỡ ra để đâu không biết hoặc thấy ai đó than khổ thì cho ngay. Lễ thánh bổn-mạng không loan-báo rềnh-rang, ai có biết mà mừng mà chúc thì nhẹ-nhàng cám ơn. Các dịp kỷ-niệm khấn dòng hay thụ-phong linh-mục thì do nhà Dòng làm; còn bản-thân, như chị Phụng-Anh nói, là phải nhắc và bắt về nhà ăn cơm mới nhớ…

Linh-mục Cao Đình Trị là người đã cho tôi nhận ra mối dây huynh-đệ đẹp lành và đầy liên-đới giữa anh em Dòng Chúa Cứu-thế với nhau qua những chia sẻ của ông với tôi về cha Phụng. Một buổi chiều đầu năm 1992, tôi gặp cha Trị trước giờ lễ chiều thì được báo tin “Phụng mới bị đụng xe, đang nằm ở Trần Hưng Đạo”. Cái lối nói chuyện thân-tình này lúc đầu tôi cũng hơi ngại vì vắng bóng những chữ “ngài” này, “ngài” nọ mà chỉ còn chữ “ông ấy” thế vào. Rồi lâu dần tôi cũng bị nhiễm nên cũng quen tai và dùng rất tự-nhiên. Song nếu như khi người khác, nhất là các giáo-dân ngoan đạo, nghe ăn nói như vậy thì sẽ cho là “gở lạ”.

Tôi vào thăm thấy một chân ông đang treo bằng  sợi dây “cable” nhỏ máng trên một bánh xe “rouleau”, đầu kia là một khối nặng nằm kênh trên sàn nhà. Y-tá giải-thích vì lúc chân bị cán lên thì chỗ xương gẫy đã chồng lên nhau, giờ phải kéo từ-từ cho ăn khớp lại rồi mới mổ ra bắt vít bắt ốc. Tôi chào “Tại đi nhiều quá nên Chúa tạm treo chân thôi” và ông cười theo cái tính mà nhà tôi gọi là “xem nhẹ các sự thế-gian” trả lời “Người chỉ bẻ nhẹ một chân thì chưa chừa được”. Tâm-linh cũng là thế đấy.

Năm 2008, giữa lúc Thái-hà đang sáng rực ánh nến công-lý, tôi ghé nhà  Kỳ-đồng gặp cha Cao Đình Trị, xin được phỏng-vấn linh-mục Giám-tỉnh Phạm Trung Thành và linh-mục Vũ Khởi Phụng khi ấy đã ra Hà-nội làm Bề-trên tu-viện Thái-hà. Sau gần 10 năm không gặp mà cha Trị vẫn cứ cách xưng hô vui-vẻ ngày trước thường dùng “Xếp ở đâu về và về bao giờ vậy”. Trong khi chờ cha Giám-tỉnh Phạm Trung Thành từ trên lầu xuống, câu chuyện hàn-huyên nhanh gọn và về Thái-hà: “Sao lại đưa “ngài” ra đấy vào giữa lúc này, Chúa có lầm không và anh em có hại nhau không vậy”. Cha Trị cười bảo “…có vậy mới  phải chịu khó làm việc nghiêm-túc và theo nguyên-tắc đi, để sử-dụng cho hết những cái xưa nay được đánh giá là giỏi-giang, uyên-bác, thâm-trầm và khôn-ngoan trước khi chết chứ…”

Đêm Giáng-sinh năm 2011, tôi đến Thái-hà nghe Thánh-ca và dự lễ đêm. Tôi cứ đứng chù-chừ không biết làm sao chen vào trước một rừng người dầy đặc ngay từ đường lớn dẫn vào bệnh-viện Đống-đa và chật cả khu sân rộng trước Tu-viện. Cuối cùng phải liên-lạc với Nguyễn Hữu Vinh để được dẫn vào qua lòng nhà thờ, xuyên ngang phòng áo rồi từ đấy ra phía sau sân khấu mà xuống chỗ cộng-đoàn đang ngồi. Cha Phụng đứng lên đón  rồi chỉ cho tôi vào ghế trống ngay phía sau ông mà ai đó đã nhường cho. Tới cuối buổi trình-diễn Thánh-ca, ông lên nói lời kết-thúc và không quên có lời chào mừng “khách quý”. Ngày hôm sau tôi trở lại Tu-viện định chào để ra phi-trường vào Sài-gòn thì cha Phượng cho biết ông đi dâng lễ ở một nhà dòng nữ nào đó. Và lần cuối cùng nói chuyện với ông là khi gọi điện-thoại từ Sài-gòn ra chào để về Úc.
Và bây giờ, tin ông mất đã làm bao hồi-ức kéo về để rồi một mảnh trời kỷ-niệm được mở ra và sẽ dần-dần khép lại.

Cha kính

Giờ này, xác-thể cha đã tan thành tro than, đã trở về với mớ cát bụi tuyệt-vời từ nguyên-thủy; song con tin rằng làn hơi thần-khí đã hà vào cho chúng ta thành thân-phận thì vẫn còn đó và đang bay gần về  cõi phúc trường sinh. Hoặc giả như người xưa quan niệm “thác là thể phách, còn là tinh-anh” thì trong cái tinh-anh ấy đang hoà theo khí thiêng trời đất, khí thiêng sông núi, mong rằng cha vẫn không ngừng nài xin ơn Người phù-trợ cho anh em, cho Giáo-hội, cho Quê-hương, cho khí-phách phượng-hoàng bền vững nơi hết thảy anh em mình. Cho đến một ngày không còn những cái mà theo cách một người anh em Phan-sinh của chúng ta là linh-mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh đã gọi là những con gà mái đủ mầu đỏ, tím, đen.

Vĩnh biệt…

No comments: