Thursday 6 August 2015

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR Tin Mừng Yoan Đoạn 1 và 2



YOAN  1: 1-18 : LỜI DẠO ĐẦU PHÚC ÂM

   *Ý Tưởng:  1-5      Lời của Thiên Chúa : Trong Thiên Chúa, sự sống, sự sáng.
                          6-8      Sứ mạng của Yoan Tẩy giả : Làm chứng cho sự sáng.
                          9-14    Lời đã đến trong thế gian.
                         15        Chứng chỉ của Yoan Tẩy giả.
                         16-18   Những ân huệ của Lời.

   * Kiểu hành văn :

             Từng câu ngắn, có nhịp điệu ( Biền ngẫu, nhất là tiếng móc để chuyển ý ). Tuy nhiên, kiểu hành văn đó bị đứt khúc bởi 2 đoạn 6, 15 : nói đến Yoan Tẩy giả ( Sứ mạng và chứng chỉ của ông). Quả thực, câu 9 liền kết với câu 5: Tiếng móc “ sự sáng” chủ từ ở câu 9 không có, nhưng chắc phải là Lời ( Logos ) vì câu 8 và câu 9 tương phản nhau: Non erat lux – Không có sự sáng/ Erat lux vera – Ánh sáng thật. Câu 16 liền với 14: Tiếng móc Plenum gratiae…/ De plenitudire ( Đầy ân sủng…/  Sự viên mãn). Câu 16 khởi bằng hoti ( quia – điều đó ), sau câu 15, tiếng không có nghĩa gì cả, nhưng nếu tiếp ngay câu 14 thì dĩ nhiên câu 16 cắt nghĩa: Làm sao Logos lại plenium gratiae( ex effectu – , vidimus/ accipimus ( chúng tôi/nhận). Như vậy, phải nói hai khúc 6-8 và 15 làm gián đoạn ý tưởng về Logos. Nếu đọc liền cả đoạn mà loại đi các câu ấy, ta có một đoạn văn liên tục. Đằng khác, không thể nói 6-8 và 15 mạo nhập và cũng không ai vụng về đến đỗi chêm một cách ngớ ngẫn như thế. Vậy phải nói, các câu ấy tuy vụng về hành văn, nhưng là tác giả ( hay soạn giả cuối cùng) đã có ý làm như thế. Thực sự, nếu ta đọc liền 6-8 với 19-28, chúng ta có một đoạn văn liên tục khác : Nói việc Yoan xuất hiện và làm chứng về Chúa Yêsu. Bởi thế, câu 19 lại khởi sự bằng  kaì (et) không có nghĩa sau câu 18, nhưng có nghĩa sau câu 8. Vậy, ý tác giả như thế nào ? Kerygma tiên khởi luôn khởi sự sứ vụ Chúa Yêsu với Yoan Tẩy giả ( Diễn từ công vụ, Marcô và cả Mattheu, Luca, lý do trình thuất về niên thiếu là nhập đề thôi ). Yoan cũng một ý như thế. Vì thế, tác giả lấy mấy câu đầu về trình thuật Yoan Tẩy giả và câu 15 ( :30 ), tức là chóp đỉnh của chứng Yoan mà chêm vào giữa bài vãn về Logos.

   * Cách tổ chức lời dạo đầu :

            Tác giả đã dùng các câu chêm mà cắm chặng và chia ý tưởng. Tuy nhiên, kiểu diễn ý của tác giả không theo thể thống hợp lý : Tác giả làm cách như lợp ngói. Diễn ý mình trong một khúc để rồi lấy lại mà diễn thêm  và bổ túc trong khúc sau.
            - Khúc thứ nhất kết với câu 5 : Tác giả bao quát ngay tất cả công việc của Logos, sau khi thoáng nhìn đến mầu nhiệm hằng có của Logos.
            - Dùng khúc chêm để cắm chặng ( 6-8) : Yoan làm như cái móc vào lịch sử cứu rỗi thực sự đã xãy ra, nói về Logos không phải là suy luận thuần lý ( Đó là công dụng của lời chêm ). Khúc thứ hai diễn ra mầu nhiệm Logos đã xuất hiện và hành động trên trần gian ( Cả sứ vụ Chúa Yêsu được tóm tắt lại cho đến vinh quang Sống lại của Ngài). Ta thấy được là Yoan lập lại câu 4-5.
            - Khúc thứ ba : Sau câu chêm 15 ( Quả quyết bằng chứng của Yoan về tính cách siêu việt của Mêsia Thiên Chúa sai đến ), tác giả cho thấy tính cách siêu việt của ân huệ Thiên Chúa đã ban cho loài người trong Chúa Yêsu : So sánh sứ vụ của Chúa Yêsu và sứ vụ của Môsê. Chúng ta cũng lại thấy tác giả diễn lại ý tưởng  của câu 4-5.

   * Vai trò của lời dạo đầu trong Yoan :

             Nhiều tác giả muốn dựa vào 1-3 để hiểu Yn 1, 1-18, hay ít là 1-14 như một trình thuật, hay suy luận về những điều Logos đã làm trước khi Giáng Sinh. Kỳ thực, ta thấy tác giả nói đến sứ mạnh trần gian của Chúa Yêsu và việc Israel từ chối ( 9-11 ) vinh quang Phục Sinh của Ngài ( 14 ), sự sống Thiên Chúa Ngài đem đến cho những ai tin vào Ngài ( 12, 16-18). Như thế, lời dạo đầu không tả một giai đoạn nào trước Phúc âm nhưng tả cũng những sự kiện của Phúc âm, có điều làm cách tổng quát.
             Vậy tác dụng của Yn 1, 1-18 là lời dạo đầu. Tuy tác giả dùng nhiều công thức trừu tượng ( Logos, sự sáng, sự sống, Doxa, sự thật ), nhưng đã đọc xong Phúc âm thì những lời đó không còn là suy luận thuần lý nữa, nhưng là những phương diện phức tạp của cùng một biến cố:  Sự kiện Yêsu Nazareth, sự can thiệp Cánh Chung của Thiên Chúa, những phương diện của một sự thật quá đầy đủ. Yoan sẽ dùng tất cả Phúc âm để giải thích, để cho thấy sự phong phú của Con Một Thiên Chúa đã đến , đã hoàn tất cả HESED và EMETH ( gratia et veritas ) mà Thiên Chúa đã dự định từ đời đời.

Câu :1-5 đã là toát yếu cả Phúc âm. Những tiếng Lời, Sự sống, Sự sáng, tối tăm : Dùng sự kiện hữu hình để ám chỉ những thực tại siêu nhiên, nhất là Sự  Sống , trong Yoan, luôn chỉ sự sống của Thiên Chúa.

Câu 1. Yoan lên đến nguồn suối Sự Sống của Thiên Chúa.
 In principio/ lúc khởi nguyên có thể là lúc đầu hết ( cho một chuỗi theo sau ), tương đối, nhưng có  Erat  nên phải hiểu về  Sự có ở bên kia thời gian, sự đời đời, nói theo cách thông thường.  Nhưng cần thiết hơn : Các ám chỉ :
            - Stt 1, 1 nội dung của Tin lành là Nước Thiên Chúa, nhưng cuối cùng đã thu gọn tất cả nơi thân mình Chúa Yêsu : Ngài là Lời của Thiên Chúa – Lời đó đã xuất hiện trong một thời gian, nhưng Lời đó đồng nhất với Lời tạo thành của Thiên Chúa, và nếu đã cùng tạo thành với Thiên Chúa, thì đời đời Lời đã có.
            - Ngạn ngữ 8:22 Lời mang tính cách của sự Khôn Ngoan, một cách gián tiếp để cho thấy Lời có một thực thể riêng giống như Khôn Ngoan, nhưng luôn ở trong Thiên Chúa, đằng khác, lại có liên lạc với vũ trụ : Logos có phận sự tạo thành và cứu rỗi như Khôn Ngoan ( Ngạn ngữ 7: 22-27).
            - Mc1: 1 Tin lành xuất hiện trong lịch sử, theo Kerygma tiên khởi từ Yoan TG rao giảng và Chúa Yêsu chịu phép rữa. Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa không phải từ đó mới có, mới hoạt động.
Erat ( là) : Đối chiếu với factum est ( Nó là) ( 1: 3 ; 6 ; 14).
Verbum (Logos): Yn ngay từ đầu đã nhắm đến Chúa Yêsu, thành tựu Cánh chung của mọi ý định Thiên Chúa và hoàn toàn xác tín Chúa Yêsu là Tin lành, là Lời Thiên Chúa đã nói ra. Tiên vàn mọi sự, chương mới đầu phải đọc như lịch sử, nhưng là lịch sử mặc khải hằng có, do một nhân vật hằng có. Logos hằng có nhưng không thể biết , hay hiểu được  Vấn đề ngoài dung mạo lịch sử của Chúa Yêsu. Đằng khác, biến cố trong trình thuật Phúc âm chỉ hiểu được khi xác tín rằng vai chủ động của Phúc âm không chỉ là người ta mà là Logos hằng có của Thiên Chúa.
Et verbum erat apud Deum / Và Lời ở nơi TC : Tiếng dùng để chỉ sự gần gũi, nhưng muốn gần thì phải khác : Chúng ta có thể nói có ám chỉ đến ngôi vị, nhưng đó là kết luận sau.
Et Deus erat verbum / Và Lời là Thiên Chúa : Theo mẹo Hy Lạp thì rõ chủ từ là Logos, như thế Deus là trạng từ chỉ tính của Logos.
Yoan muốn độc giả phải đọc phúc âm dưới nhãn giới của câu nầy. Việc và lời của Chúa Yêsu là việc và lời của Thiên Chúa. Nếu không hẳn là thế thì sách chỉ là chuỗi lộng ngôn.

Câu 2: Hoc erat in principio apud Deum/ Ngài đã có lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa
Hai mệnh đề đàu tên được tóm lại : Lời không phải từ đâu đến với Th. Chúa nhưng Lời ngay từ đầu đã ở nơi Th. Chúa. Hình như có dội lại ngạn ngữ 8: 27-30 ( Coi 17: 5).

 Câu 3. Yoan chuyển qua công tác Lời có trong tạo thành.
Omnia per ipsum facta sunt / Nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành
            - Ngạn ngữ 8: 30.
            - Do Thái: P. Aboth 3: 15 hiểu về Torah, như dụng cụ nhờ đó vũ trụ đã được tạo thành.
            - Triết lý khắc kỷ : Logos là nền tảng của tạo thành.
            - 1Cor 8: 6 ; Col 1: 16 : Heb 1: 2. Ý của Yoan : Lời có nhiệm vụ trong tạo thành nên Lời không phải là trung gian tùy dịp, ngẫu nhiên.

            3b – 4 Vấn đề phân câu không được chắc. Chữ Quod factum est/Điều đã thành sự ( ho gegonen) có thể đem về trước hay kéo về sau. Có thể :
            -  ( a )Quod factum est in ipso vita erat…Điều đã thành sự nơi Ngài là Sự sống.
            -  ( b )Nihil quod factum est / in ipso vita erat
Phải hơn, nối với nhau :
1 : Thể văn của lời dạo đầu : Có biền ngẫu giữa các vế và tiếng móc.
2 : Lịch sử : Từ đầu đến thế kỷ IV, đều theo kiểu (a), đến bè rối Arius nổi dậy, muốn dựa vào câu nầy mà từ chối thần tính của Logos, từ đó người ta bắt đầu đọc theo kiểu (b).
Có bốn cách hiểu :
            - ( a ) Quod factum est in Ipso ( in Verbo) vita erat.
            - ( b ) Quod factum est – in Ipso vita erat.
            - ( c ) Quod factum est, in ipso vita ( chủ từ ) erat.
            - ( d )  Quod factum est, in ipso ( Verbum ) erat vita.

Vita (zôê) theo kiểu Yoan dùng thì luôn luôn đem về sự sống siêu nhiên, nhất là 4b lại định nghĩa et vita erat lux… Theo mẹo Hy Lạp, zôê không có quán từ, nên dễ hiểu hơn cả là một phụ từ ( attribut ).

Kiểu ( b ) : Cyrillo Alex cắt nghĩa giống như Col 1: 17 Omnia in ipso constant. Vita có nghĩa thế thì thực là ép, và lại hoàn toàn tự nhiên.
Augustinô theo thuyết mô phạm “ mọi sự có mẫu sống trong Verbum”
Boismard : Mọi sự đã dựng nên đến mức sự sống trong Verbum : Chuyển nghĩa “ Quod factum est : Quod est viviens” vita: tự nhiên.
Chung chung : Chữ nầy phải chuyển nghĩa, và Vita phải là tự nhiên.

Kiểu ( c-d ) : Quod factum est : một thứ casus pendens, nhưng trong Yoan, casus pendens là cốt nhấn đến điều quan hệ nhất. Đây không có lý gì mà cho quod factum est là quan hệ.

Kiểu ( c ): Loisy dịch “Ce qui est devenu, en cela il y eut vie”. Loisy hiểu về sự sống siêu nhiên. Phải chuyển nghĩa  quod factum est để nhắm về loài người. Vita chủ từ ( Theo Hy lạp đáng phải có quán từ, nhưng thực lại không có). Van-Hoonacker hiểu tất cả  vita lux về tự nhiên, càng không theo mạch lạc hơn nữa.

Kiểu ( d ) Mollat trong Bible de Jerusalem : Vấn nạn : Casus pendens không có lý do-Vita chuyển nghĩa : 4a Tự nhiên, 4b Siêu nhiên.

Kiểu ( a ) Quod factum est in Ipso vita erat. Chủ từ : Quod factum est in Ipso – Trạng từ:  vita. Động từ ginomai Hy Lạp ( fieri ) có thể có nghĩa mạnh : Được làm ra (dựng nên)  nhưng cũng có nghĩa yếu: Xãy ra. Giữa nghĩa mạnh và nghĩa yếu có một ý tưởng chung  Được xuất hiện ra, được thành sự.

3: Điều được thành sự là do bởi dựng nên nhờ Lời.

Câu 4: Điều được thành sự là điều được xuất hiện trong Lời, nơi Lời : Sự sống siêu nhiên được thành sự trong Ngài. Nghĩa là xuất hiện, tỏ bày ra và thông báo cho loài người.
Điều đã thành sự nơi Ngài, trong Ngài là sự sống – như thánh Ambrôsiô nói – “ Thần tính Ngài là sự sống, sự hằng có Ngài là sự sống, xác thịt Ngài là sự sống, sự thương khó Ngài là sự sống”. Như thế, 4a đi vào sự nghiệp trần gian của Lời làm người.
Et vita erat lux hominum / và sự sống là sự sáng cho nhân loại : Có sự sống là thoát khỏi giới sự chết hay giới tối tăm : Sự chết không phải là hoàn toàn tiêu diệt nhưng sự chết thiêng liêng. Điều đó Yoan sẽ diễn bằng tương phản : Sự sáng / Tối tăm như đã thấy trong Phúc âm.

Câu 5: Et lux in tenebris lucet /Và sự sáng rạng trong tối tăm : Nơi Chúa Yêsu có vinh quang Thiên Chúa đã chói lọi ( 3: 19-21  8: 12 Yn 9, 12: 35t  46). Sự sống, sự sáng nói đây tức là chính Chúa Yêsu rồi.
Et tenebrae eam non comprehenderunt /Và tối tăm không triệt được sáng : Đứng trước Sự sáng đó có sự tối tăm ( Sự đối chọi đó, coi : 3: 19  8: 12  12: 35-46  13: 30 ) tức là những quyền năng ma quỷ. Nhưng vừa nói đến tối tăm, quyền lực hắc ám đó, Yoan không thể không rao      lớn cuộc toàn thắng của Chúa Yêsu trên tối tăm : Ánh sáng  Phục sinh đã hé rạng.
Comprehenderunt : Tiếng Hy Lạp Katalambánein: Chụp lấy, lấn át đi – Cũng có nghĩa chụp lấy bằng trí khôn, hiểu. Yoan để ý đến “ tối tăm không dập tắt được sự sáng” nhưng cũng bỏ ngõ cho ý tưởng “ hiểu được, lĩnh hội được”.

Câu 6-8: Giai đoạn thứ hai khởi sự  bằng việc Yoan Tẩy giả xuất hiện.
Các câu nầy chêm vào trước khúc nói về Lời đến trong trần gian và công việc của Lời. Lời là Sự sáng. Trước khi Lời xuất hiện, Thiên Chúa sai Yoan đến để làm chứng. Các lời nầy vạch ra khía cạnh tiêu cực ( Yoan không phải là sự sáng ) và tích cực của sứ mạng Yoan TG. Yoan theo một biểu thức như các Phúc âm khác : Yoan TG là người tiền hô cho Tin lành Chúa Yêsu đem đến.        

Câu 9-14: Lời đến trong trần gian.
Chính Ngài đã dựng nên, trong dân Ngài đã chọn như dân riêng, nhưng người ta không nhận biết Ngài, không chịu lấy Ngài. Nhưng nơi những kẻ chịu lấy Ngài trong lòng tin, thì Lời ban sự sống làm cho họ nên con cái Thiên Chúa, con cái siêu mọi dây máu mủ  (ơn cứu rỗi dựa trên ơn Thiên Chúa và lòng tin, chứ không phải riêng cho dân tộc Israel, dựa trên một huyết thống). Các câu 12-14 diễn rộng hơn ý của câu 4 : ( giải thích) Sự sống đã xuất hiện nơi Lời là gì : Sự sống làm cho người ta nên con cái Thiên Chúa. Làm thế nào ? Tất cả ý định Thiên Chúa đã thành tựu. Lời Thiên Chúa không còn chỉ là lời hứa, nhưng đã có xương thịt, đã có hình hài, đã nên lịch sử ở trần gian  Verbum caro factum est nơi thân xác của Lời. Doxa Thiên Chúa đã nên hiện tại và nhìn thấy được. Khi nào sự sáng đã chiếu dọi, lướt thắng tối tăm : Lúc mà các môn đồ đã nhìn thấy ving quang của Con, giờ mà Con đã được nhắc lên trên thập giá để vào vinh quang của Cha. Đó là Hora : Mặc khải đầy đủ Agapê của Thiên Chúa đối với nhân trần, giờ kết thúc việc ban sự sống đời đời , tỏa ra thành Kharis – Alêtheia.

15-18: Phần thứ ba : Hậu quả của công việc Chúa Yêsu : Giao Ước mới.

Câu 14 : đã gợi ý tưởng của khúc nầy :
Plenum gratiae et veritatis/Đầy ơn nghĩa và sự thật.
 Con hoàn toàn giống như Cha, Thiên Chúa đã tỏ mình trong Cưụ Ước  Thiên Chúa đầy ân nghĩa và trung tín ( Xh 34: 6). Khúc nầy so sánh giữa Chúa Yêsu va Môsê. Giao ước cũ cốt để cho ta hội ra được sự cao quý của giao ước mới.

Câu 15: Lại một chi tiết lịch sử Phúc âm: Chứng chỉ của Yoan TG.
Chứng chỉ nầy vạch ra tính cách siêu việt của Chúa Yêsu. Ngài không chỉ là  qui venturus est – Đấng Mêsia các tiên tri đã báo trước – mà Ngài còn là Prior erat : Hằng có như Thiên Chúa Cha. Như thế, điều nói trong câu 1-2 xuất hiện lại.

Câu 16-18 diễn lại cách khác câu 4-5 về sự sống và sự sáng, nhưng bằng hai tiếng mang nhiều âm hưởng Cưụ Ước : Gratia – Veritas. Câu16-17 chú trọng đến Gratia, Veritas nói đến trong  câu 17-18.
Kharis ( Gratia ) phải hiểu theo hesed Cưụ Ước : Sự trung trực, cái tiết tháo của Th. Chúa, sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, với lời hứa với dân Ngài đã ban giao ước cho. Tiếng đó LXX ( Bảy mươi) dịch bằng éleos ( misericordia ), rồi chuyển qua kharis để diễn rả tâm tình của Thiên Chúa đầy thiện cảm, yêu thương – mà cũng tả hậu quả của lòng yêu thương đó : Ân huệ ban ra chứng tỏ lòng yêu mến. Cả hai điều đó được diễn ra nơi Chúa Yêsu.
Veritas :  alêtheia dịch Emeth : Tiếng có thể hiểu theo nghĩa thông thường : Đúng với điều xãy ra, không sai lạc. Tuy nhiên, trong Cựu Ước chỉ sự trung tín của Thiên Chúa với điều Ngài đã hứa. Nơi Chúa Yêsu, Thiên Chúa thành tựu mọi lời hứa, một trật thành tựu cả ý định của Ngài. Đó là mặc khải Tân Ước : Mọi lời hứa đã thành tựu. Mặc khải đó do tự Thiên Chúa trung tín với bản lĩnh của Ngài, với các lời hứa. Tuy nhiên, cuối cùng tất cả mặc khải là chính mình Chúa Yêsu : Sự thành tựu và sự mặc khải những ý định của Th.Chúa : Ego sum veritas/Sự thật chính là Ta. Nhưng đứng trước chữ alêtheia, người học thức Hy Lạp liên tưởng ngay đến giới thần linh, giới Thiên Chúa, vĩnh viễn trường tồn, mọi sự trần gian là hình ảnh . Alêtheia có thể mang theo ý nghĩa “ Thực tại đích thực”, thực tại trong giới Thiên Chúa.
Accipimus/ Chịu lấy: Những người đã lên tiếng trong câu 14 còn nói tiếp : Họ đã được thông chia sự sung mãn dư đầy có nơi Con Thiên Chúa làm người.
Gratiam pro gratia/ Ơn nầy thay ơn nọ : 
Từ xưa đến nay, các nhà chú giải đều lung túng, chung chung giữa 2 cách giải thích :Một ơn riêng cho người tín hữu tương xứng với ơn dư đầy nơi Chúa Yêsu – hay ơn của Giao ước mới thay cho ơn của Giao ước cũ. Nhưng trong đoạn nầy, Yoan gọi Giao ước cũ là Lề luật ( Câu 17) – Tuy không hoàn toàn mâu thuẫn ( Lề luật có thể gọi là một ơn ), nhưng dù sao, trong mạch lạc khó nghe.
Người khác hiểu Gratia về Lòng mến Thiên Chúa, như thế,  ơn tương xứng với ơn tức là người ta được chịu lấy một lòng mến ( như con cái ), ứng đáp lại lòng yêu mến của Thiên Chúa như Cha.
Người khác nữa : Tất cả sinh hoạt tín hữu dựa trên ơn Thiên Chúa tất cả, ơn nầy qua thì đổi lại ơn khác đến.

Câu 17 : Đối chiếu hai giao ước : Tính cách siêu việt của ơn ta được nơi Chúa Yêsu. Yoan ám chỉ nhiều nơi đến Lề luật, Môsê, vai trò trong nhiệm cục cứu rỗi: Cựu Ước dọn đường cho Giao ước mới. Trong Chúa Yêsu, người ta mới được ân huệ và thực tại cùng tận.

Câu 18 : Lời đạo đầu kết thúc ân huệ cuối cùng và nguồn suối mọi ân huệ: Thiên Chúa không ai đạt thấu được Ngài. Tất cả Cựu Ước đều mang cảm tưởng : không thể thấy Thiên Chúa mà sống được ( Xh 20: 19  33: 20 , thẩm phán 13: 22). Các tiên tri được Thiên Chúa hiện ra cũng chỉ thấy được hình ảnh của Ngài mà thôi ( Is 6 Yr 1 Ez 1-3 ). Đạo Do Thái thời sau càng chú trọng điều đó và cố loại đi các kiểu nói có bóng giáng  Như Nhân trong Cựu Ước ( dùng Shekinah thay thế ). Yoan không nói đến thuộc tính vô hình Thiên Chúa, nhưng đến sự kiện nơi Chúa Yêsu, Thiên Chúa mới tỏ mình ra. Chúa Yêsu mới biết Cha, thấy Cha ( 5:19  6:45  7:29  8:55  10:15  17:25 ), kết hợp mật thiết với Cha, không hề tách khỏi Cha ( 10:30-38  12:45  14: 9-11  20  17: 21-23 ). Vậy chỉ có một mình Ngài cho chúng ta đạt thấu mầu nhiệm Thiên Chúa.
Ipse enarravit/ Thông tri . Tiếng Hy Lạp exêgeisthai có nghĩa là “Thuật lại”, doãn lại điều xãy ra, nhưng nên để ý đến trong sắc thái có trong tôn giáo Hy Lạp : Tiếng dùng cho việc công bố, tỏ bày những bí nhiệm thần linh, nhất là sự bày tỏ ra do các vị thần. Có thể Yoan muốn kết thúc với kiểu quan niệm mặc khải đó : Nơi Chúa Yêsu, Thiên Chúa vô hình nay đã tỏ rõ ra trong vinh quang của Ngài, trong ân sủng và sự thật. Đến đỗi, : Ai thấy Con là thấy Cha” ( 14: 19 ).

YOAN 1: 19-51  NHỮNG CHỨNG CHỈ.

I. Bố cục.
Phải so sánh với Mc 1: 1-15
            Yoan TG xuất hiện – Loan báo Mêsia sắp đến.
            Tường thuật lại việc Yêsu chịu thanh tẩy, rồi chiến đấu với quỷ cám dỗ.
            Kết thúc với tuyên ngôn: Impletum est tempus et appropinquavit Regnum Dei/ Thời đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần.

Chứng chỉ Yoan.
            So Mt – Lc, Yoan còn là người giảng đường công chính.
            So Mc – Yn, Yoan chỉ còn là chứng tá cho Mêsia: Tuyên lời Isaya ( Yn 1: 23 ), chỉ Đấng Mêsia ( 29-34) do mặc khải. Gián tiếp trình bày việc Chúa Yêsu thanh tẩy ( Hỗn hợp lời tẩy giả trong Nhất lãm với lời bởi trời).
            Yn có riêng : CHIÊN THIÊN CHÚA.
Yoan thâu nhận các yếu tố của Kerygma ( Yêsu là Mêsia, khai sáng trật tự mới : Thánh Thần – Chứng thực bởi đại diện tiên tri cuối cùng ).

Chứng của các môn đồ.
            Mc đặt các chứng đó suốt cả Phúc âm.
            Yn giữ hình thức “Kêu gọi môn đồ”, nhưng thực ra chiêu tập các chứng chỉ. André – Yêsu là Mêsia, Philip – Yêsu, Đấng Môsê…đã nói, Nathanael – Yêsu, Con Thiên Chúa, Vua Israel.
Yoan sử dụng truyền thống về Mêsia (Thành tựu mọi lời tiên tri tuyên bố: Yêsu Kitô là sự thành tựu đó).

Chứng chỉ của Chúa Yêsu về chính mình.
            Mc 1: 15 Impletum est tempus, et appropinquavit Regnum Dei.
            Yn 1: 51 Filius hominis

II. Chú giải.
Câu 19: Testimonium/ Chứng ( Chủ đề quan trọng trong Yn ).
Yn không dùng tiếng Testis ( martus ) nhưng động từ ( marturein) testimonium perhibere – và danh từ Testimonium  (marturia) ) tương chiếu với sự tiến triển về quan niệm Kitô luận: Chúa Kitô thi thố công việc cứu chuộc trong một khung cảnh là thế gian thù địch. Sự chống đối Nhất lãm đã nói đến ( Mt 10: 18 Mc13: 9 Lc 121: 13 ) được Yoan nhấn mạnh. Tất cả đời Chúa Yêsu diễn ra như trong một vụ kiện : Yêsu và thế gian đương đầu với nhau. Các nhân chứng được gọi đến lấy khẩu cung đều diễn ra Lời Mặc Khải của Cha. Quan niệm chứng nơi Yoan có tính cách pháp lý. ( Yn không dùng tiếng Kerygma, Yn có tính cách biện hộ).
Chứng dựa vào đâu. Chứng : Tuyên ngôn trên sự kiện hay biến cố mình biết được bởi kinh nghiệm ( Yn ; Chứng đi với thấy: 1:34  11:32  19: 35   1Yn 2: 4-14). Nhân chứng đã thấy ( Bằng mắt một điều gì trong đời Chúa Yêsu – Điều nầy, Yn cũng giống như  Nhất lãm, Công vụ ), nhưng với Yoan, các nhân vật không còn làm chứng về sự kiện mà là về thực tại cao siêu tàng ẩn dưới sự kiện. Địa vị Mêsia (1: 32), Máu – Nước (19: 36) như dấu cho những ơn cứu rỗi. Dưới các sự kiện : Có thực tại vô hình, chứng nhân chỉ biết được nhờ Mặc khải. Như thế, chứng chỉ vừa nói đến kinh nghiệm giác quan, vừa nói đến thực tại thiêng liêng.

Chứng về cái gì. Điều căn bản chính là Chúa Kitô ( 1:7-8  15: 5-31,32.36,37,39  8: 14,18  10: 25  1Yn 5: 9): Ngang qua Lời và việc Chúa Yêsu, chứng chỉ nhắm vào mầu nhiệm của thực thể của Ngài, thực tại thiêng liêng của mình Ngài.
Ai làm chứng. Yoan TG – Kinh Thánh ( 5: 39) – Môn đồ Chúa Yêsu ( Công việc Ngài) – Thần Khí sự thật ( 15: 26…). Hết các chứng chỉ đó đều qui tụ lại nơi Chứng của Cha : Mặc khải của Cha diễn ra nơi các nhân chứng, kiện toàn nơi chứng của Chúa Yêsu, tồn tại trong chứng chỉ của Thánh Thần. Mục đích của chứng chỉ : Đức Tin (1: 7  19: 36). Trung tâm của Đức Tin là Chúa Yêsu “qui venit per aquam et sanguinem”.
Judaei ( Coi 2 nghĩa của tiếng đó sát với nhau 7: 11-13) Linh đạo Do Thái và Dân Do Thái. Do Thái ( Linh đạo): Địch thủ của Chúa Yêsu, bởi đó mà Yoan dùng tiếng riêng Israel cho dân Chúa chọn, Israel mới. Do Thái là đại diện cho thế gian.
Sacerdotes et levitas / Tư tế và lêvi: Những nhà chuyên môn về tẩy rữa

Câu 20-21:Tính cách biện luận ( Chống bè sùng kính Tẩy Giả).
Elya : Cựu Ước : Malaki 3: 1  23-24 Sir 48: 10  Elya được đồng nhất với sứ giả dọn đường cho YHWH – Qumrân cũng có như thế. Tân Ước Mt 11: 8tt Yoan TG là Elya redivius ( Mt 17: 10). Đó là quan niệm Elya đến để tỏ đấng Mêsia cho dân chiếu theo quan niệm trước tiên tàng ẩn – Mêsia đến xức dầu và tỏ ra. Vai trò Elya  đó, Yoan TG đã làm. Tuy nhiên, ở đây Yoan chối : Nguyên nhân ngoài quan niệm Elya tiền hô của Mêsia, còn quan niệm Elya tiền hô của Thiên Chúa YHWH, và như thế có vai trò như một Mêsia ( Đó là quan niệm của môn phái Tẩy giả sau nầy: Còn thấy nơi bè Manđa ).
Propheta ( Theo bản Hy Lạp thì có quán từ, một nhân vật nhất định nào). Người Samarie chiếu theo Thứ luật 18: 15tt mà trong đợi Ta’eb – tức một Moyses redevidius, có tư cách tiên tri, làm phép lạ, lập luật, tái tạo tôn giáo đích thực : Ta’ eb. Ta”eb : Người tới lại hay người khôi phục mọi sự. Qumrân cũng có quan niệm tương tự như thế về “ Doctor justitiae( Môreh sedeq). Như thế, Yoan chối tư cách vị tiên tri Cánh chung, vì theo Yoan, Yêsu mới là vị tiên tri đó (Yn 6: 30 Act 3: 22   7: 37). Ngài thu lại nơi mình Ngài mọi nhiệm vụ của những sứ giả Thiên Chúa. Hoàn cảnh:  Đầu thế kỷ thứ II có tranh luận giữa bè Yoan TG và Kitô giáo Do Thái, điểm tranh luận không đem về tước Mêsia  mà là tước Tiên tri. Có những Kitô hữu đi xa đến đổi coi Yoan TG là tiên tri giả.

Câu 23 : Vox clamantis in deserto./  Có tiếng hô trong hoang địa
Yoan TG không liệt mình vào quan niệm chung luận – chỉ có một tín phù cho sứ mệnh : Uy tín của Kinh Thánh. Ngài có sứ mệnh một tiếng vô danh, nhưng dựa trên ý định Th. Chúa tỏ bày trong Sách Thánh : Ngài toát yếu ý nghĩa của cả Cựu Ước đối với Hội Thánh: “ Lời Th. Chúa ngang qua các tiên tri đẻ nhắm đến Lời nhập thể”.

Câu 24: Câu khó trong văn bản.
Missi ( gửi đi ) ( Trong bản Hy lạp có quán từ hay không). Nếu có (quán từ), sứ giả thuộc Biệt phái. Nếu không, hình như một phái đoàn khác chất vấn ( có ít người của Biệt phái sai đến) – Hay là – Họ đã được sai đến do Biệt phái ( Biệt phái không phải là chức quyền: gây khó cho tính lịch sử của Yoan ).

Câu 26: So với Mc 1: 7. Yoan cắt làm hai một ý tưởng đối chiếu hai phép rữa. Vế thứ hai, Yoan đặt mãi tại câu 35.

Câu 28 : Khó khăn về văn bản: Bêthania và Bêthabara.

Câu 29 : Agnus Dei.
Hình ảnh chắc thuộc thế giới Cựu Ước. Nhưng đích xác ở đâu? Có những giải quyết :

1. Agnus – Mesia : Văn bản so câu 36 và 41.
Ý tưởng có trong trào lưu khải huyền ( trào lưu hình như không xa lạ nơi bàng cận Yoan vì khải huyền cũng viết theo thế giới tượng trưng đó: Kh 7:17; 14:1-5;17:14;6:16; 22:1-3.
Tư tưởng : Hênoc : Dân Chúa là một đàn chiên, có chiên đầu đàn dẫn đi – Di chúc 12 tổ phụ cũng thế - Trào lưu khải huyền nầy có dính đến nhóm Qumrân – Yoan TG chắc có liên lạc với nhóm nầy.

2. Một giải quyết khác dựa trên nguồn văn Aram giả thiết là nguyên cảo của ít ra đoạn nầy : TALYA ( agnus/ chiên – servus /tôi tớ ) và như vậy tiếng Agnus đây chính là phải dịch Servus. Tư tưởng đi với mạch lạc đoạn nầy :
            - Trong Nhất lãm, Yêsu chịu thanh tẩy không vì tội mình mà là Ngài lãnh lấy nhiệm vụ Người tôi tớ ( Tiếng bởi trời Is 42:1 : Yêsu chịu thanh tẩy là nhắm đến cái chết của Ngài, Ngài sẽ thi hành một cuộc thanh tẩy đại đồng cho toàn dân của Ngài.
            - Dị bản Electus Dei ( Chứ không Filius Dei) trong câu 34.
            - Phép rữa Thánh Thần trong câu 33.
Vậy dẫu không nhận thuyết dịch sai Talya đi  nữa, chúng ta thấy rằng Yoan đã sử dụng ở đây truyền thống Nhất lãm giải thích về việc Chúa Yêsu chịu thanh tẩy.

3. Nhưng phải đi một bước nữa là tư tưởng Người tôi tớ đây cũng lại tư tưởng của Isaya 53: 7-12, nhắm đến cái chết thục tội của Người tôi tớ.

4. Hồi sau cùng : Chiên Paskha ( nhưng không phải kéo trực tiếp từ đạo Do Thái, vì chiên Paskha đó không tẩy xóa tội lỗi). Như thế là giải thích Tiệc ly và lễ Tạ ơn theo ý nghĩa Paskha. Lễ tạ ơn là tiệc paskha, trong đó sự chết của Chúa Kitô được diễn hình bằng dấu nhiệm.
Qui tollit peccatum mundi / Đấng khử trừ tội của Thế gian: Nghĩa trước tiên của tollit là cất đi, khử trừ ( nghĩa thông thường trong Yoan, nhất là coi trong  1Yn 3: 5  11: 1-9  32: 15-19  44: 3-5 Ez 35: 25tt). Chủ đề đó được bàn rộng trong các khải huyền Do Thái thuộc thời Tân Ước ( Hênoc 10: 16-22 Ps Salomonis 17: 29…) Tân ước tuy biến đổi nhiều yếu tố tin tưởng Do Thái, lại nhấn mạnh đến nhiệm vụ nầy của Mêsia ( theo hình thức cao siêu hơn ): Cv 5: 31  3: 26 Mt 1: 21. Tư tưởng đó thể hiện trong Yn: 1Yn 5-9   5: 18 Yn 8: 31-36, 41-44.

Nhưng khử trừ tội lỗi bằng cách nào ?
Bằng sự vô tội của Ngài ( nhưng không đủ : Sao lại thế ! )
Là vì Ngài ban cho nhân loại thần lực để thôi phạm tội, và chổ nầy ta thấy được liên lạc với Thanh tẩy Yêsu vừa chịu lấy  Ngài lĩnh lấy Thần Khí bởi trời, nên Ngài có thể thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần ( tức là thông cho người ta Thánh Thần Ngài chịu lấy). Thánh Thần là mãnh lực làm cho người ta có sức đi trong luật Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thấy Yoan chắc có liên tưởng đến  Ebed Yahweh ( Is 52: 13   53: 12).
Mang lấy tội lỗi: Như thế, Người tôi tớ là hy sinh thục tội. Rồi còn chiên Paskha : Sự chết của Yêsu là lễ tế mới, thành tựu mọi lễ tế, khử trừ sự tội( Thế nào ? Chờ cuối Phúc âm, Yoan cho ta thấy mãnh lực của Agapè ).

Câu 30:
Post-ante : Về địa điểm ( đằng trước, đằng sau) hay về thời gian ( Có trước, có sau ) khó xác định. Nhưng ý tưởng : Giá trị hơn kém – về thời gian có lẽ nhiều hơn vì cuối câu nói đến sự hằng có của Chúa Yêsu.

Câu 31-34 : Trình thuật lại Chúa Yêsu chịu thanh tẩy.
Mục đích thanh tẩy của Yoan là tỏ bày Yêsu cho Israel ( Quan niệm Mesia tàng ẩn được Elya trình diện ) : Điều đó thực hiện khi Thánh Thần xuống trên Yêsu. Sự đó khiến cho thanh tẩy của Hội Thánh xuất hiện được. Yoan và thanh tẩy của ông không có giá trị tự lập. Cả hai đều để làm chứng.
Baptizat in Spiritu Sancto/Thanh tẩy trong Thánh Thần :
Ơn Thánh Thần là điều làm cho nhiệm cục mới khác nhiệm cục cũ. Yêsu chịu lấy Thánh Thần và có thể ban cho nhân loại: Đấng khởi sáng chế độ cứu rỗi cuối cùng.

Câu 35-39 : Hai môn đồ.
Ai ? Andrea là một. Người kia “ Yoan! Môn đồ Chúa yêu mến”. Trình thuật rất đơn giản. Hoàn cảnh trơ trơi có : Giờ thứ mười. Như thế trình thuật khô khan là cô ý, tác giả không chú trọng . Biến cố thuật lại có một tầm vóc vượt quá hai cá nhân. Một giá trị vĩnh viễn đại đồng : Mô thức cho mọi việc kêu gọi môn đồ.
Quid quaeritis/ Các ngươi tìm gì : lời tiên khởi buột khỏi miệng Lời làm người.
Philô : ( Det 24) Kẻ  bắt bẻ ( Tức là Realis Homo ) vấn hỏi hồn khi người thấy nó lang thang : Quid quaeritis. Có lẽ Yoan muốn cho thấy Kitô – Logos đối chất với người đời, dò xét ý định, khiêu khích và lôi kéo : Ngỏ lời với hết những ai muốn làm môn đồ Ngài.
Trình thuật tóm lại :
            - Sequi – quaerere / theo tìm kiếm( Nơi môn đồ )
            - Invenire – manere / tìm lại ( Phần thưởng môn đồ).
            - Venite – vidette / Hãy đến và xem / Venerunt, viderunt ubi maneret et apud eum manserunt./ Họ đến, họ nhìn thấy và lưu lại cùng Ngài. Nhà của Ngài ở đâu thì môn đồ cũng có nhà ở đó ( 14: 2), coi cách riêng 12: 26 ( trong một mạch lạc Thương khó và Vinh quang), nhưng cuối cùng kết thúc 16: 27-30, nhưng con đường còn xa ( 16: 32 ).

Câu 40-42 : Simon Phêrô.
Có 2 điểm khó:
            - Văn bản : (Invenit hic ) primum ( fratrem ): primum, primus, mane.
            - Xác định lúc nào Chúa Yêsu đổi tên Simon – Kêpha ( Yn, Mc, Lc : đều đặt trong trường hợp kêu gọi ). Có lẽ Yoan kéo vào buổi đầu  vì lý do thần học.
Yêsu vừa quay ngó dến Simon thì đã rõ tính cách và số mạng Phêrô.

Câu 43-44 : Philip được kêu gọi.

Câu 45-49 : Nathanael.
Nathanael ( tự nguyên giống như Matthaeus, Theodoros) tranh luận có phải là Tông đồ hay không – Nếu là Tông đồ thì đồng nhất với người nào ( Hy Lạp trong phụng vụ : Simon Chí thành – bởi hiểu sai tự nguyên Cana – Cananaeus – Bartholomeus – thấy hiện lối thế kỷ IX, theo lý Bartholomeus theo sau Philip – Nhưng lại còn kiểu khác : Augustinô, Nathanael thông luật, vì lẽ đó mà không được Chúa Yêsu kêu gọi làm Tông  đồ. Văn bản có lẽ thiên về kiểu nầy.
Quem scripsit Moyses in lege, et prophetae/ Đấng mà Môsê trong Lề luật và tiên tri chép :
Hình như không nhắm đến đoạn nào nhất định.Cả Cựu Ước đều hướng về Chúa Yêsu, nhưng cũng có thể lấy Tl 18: 18 làm tiêu biểu.
Invenimus Jesum, filium Joseph a Nazareth – Nazareth potest a liquid boni esse. /Đức Yêsu, con của Yuse người Nazareth – Tự Nazareth thì có thể nẩy ra gì tốt được .
Câu đáp lại của Nathanael : Coi tư tưởng Do Thái Yn 7:52  41-42.
Nazareth vô danh kia lại là quê quán của Đấng mà các tiên tri cùng Môsê đã nhân danh Thiên Chúa hứa, đối với Nathanael là điều không thể tin được. Nhưng – Độc giả phải học để nhìn ra – Hành động của Thiên Chúa thường là gây kinh ngạc, không thể tin được. Cái chướng do lai từ Nazareth, là phần trong cái chướng gây nên bởi Lời đã làm người. Khi gặp cái chướng kia, không có lý lẽ linh lợi của trí khôn dàn xếp được, chỉ phải trả lời : Veni et vide ( Bengel : Optimum remedium contra piniones praeconceptas/ biện pháp tốt nhất để chống lại các định kiến)
Ecce vere Israelita / Đích thật là Người Israel.
Vere đây có thể coi như một trạng từ, Verus : xứng với tên, đích danh. Israelita ( Is 44: 5) Tên Israel Yakob là tên đặt cho kẻ nào nhận YHWH là Thiên Chúa độc nhất và chân thật (Tv 22: 24). Israel, tên chỉ Thiên Chúa lựa chọn, nhắc lại giao ước Thiên Chúa đã kết với dân và đòi phải bỏ mọi tà thần. Israel đồng nghĩa với “ Trung tín với YHWH”.
In quo dolus non est/ Trong mình không có gian dối
Nghĩa trước tiên, con người không man trá, giảo quyệt.
Nhưng LXX dùng “ Dolus” để dịch “ Mirmah, remyiah : Dối trá, lừa bịp, gian dối. Các tiên tri dùng tiếng ấy chỉ sự thất trung về tôn giáo (Hs 12: 1 Sopho 3: 15 so với 3: 12) Khải huyền (14: 5) cũng hiểu gian dối theo kiểu ấy.

Vậy Nathanael, Israel đích thực tức là kẻ đã khước từ mọi liên lạc với tà thần, hết dạ trung kiên với YHWH. Bởi nghĩa khác thường đôi chút của Dolus như thế, chúng ta lại xét đến tên Israel:
Đó là các cách hiểu Israel theo tự nguyên đạo lý:
Philô : Israel : Videns Deum ( Isra’ hel) Tên Israel kèm theo ý niệm “ Thấy Thiên Chúa” nói được là phổ thông thời Yoan được viết ra. Nếu hiểu thế thì sát với mạch lạc Israel nơi các tiên tri “ Trung tín với YHWH”. Ý tưởng trung tín đó lại được diễn tả trong kiểu nói  Thấy Thiên Chúa ( Jer 31:33 1Yn3:5-6). Trong đoạn nầy : Coi - thấy - làm chứng – tỏ hiện…rồi kết thúc câu 51 Israel đã được chọn ( Đặc điểm của Dân Chúa), trung tín với Thiên Chúa,thấy Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Yêsu : Ai không nhận ra vinh quang Thiên Chúa nơi Yêsu Nazareth (Vượt quá cái chướng ngại của xác phàm nơi Lời làm người) thì không còn là Israel theo ý định Thiên Chúa. Do Thái – vào thời Yoan cách riêng – khước từ hẳn điều đó, nên họ vẫn là Judaei, nhưng họ không còn là Israel nữa.
Cum esses sus ficu vidi te / Ta đã thấy ngươi dưới cây vả .
Lời nghĩa là : Yêsu biết được điều chỉ có một mình Thiên Chúa biết được, ám chỉ đến một việc gì kín ẩn ( Nhiều tác giả đã suy luận để biết điều đó – nhưng vô ích ). Có điều đáng để ý là các Rabbi vẫn thường ngồi dưới bóng cây mà giảng dạy hay suy ngắm Sách Thánh.
Tu es Filius Dei, tu es Rex Israel/ Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là vua Israel
Hai tước hầu như đồng nghĩa để chỉ Mêsia. Filius Dei chưa nói đến Thần tính, chẳng vậy thì sao lại để Rex Israel sau. Tuy nhiên, nên để ý: Con Thiên Chúa và Vua là hai tước đi với nhau trong Tv 2:7-8. Tín hữu thấy sấm ngôn đó đã thực hiện trong sự Sống lại của Chúa Yêsu. Điều đó cũng nói được là khởi sự thực hiện rồi trong Thanh tẩy Chúa Yêsu  (Có tuyên ngôn về Con và đằng khác, báo trước Chết – Sống lại ). Yoan nhắm cả trình tự Thanh tẩy hướng đến viễn tượng Vương quyền cánh chung, khai mạc đầy đủ trong khởi thắng Sống lại ( Đó lại là điều còn nói trong câu 51).

Câu 50-51 : Chứng chỉ của Chúa Yêsu về chính mình Ngài.
Yêsu biết như một vị tiên tri ( 2Vua 5: 24) ( Lc7: 39) khiến cho Nathanael tin. Đức tin đó khi đã có thì lại được thấy những sự lạ lùng hơn : Điều đó được cắt nghĩa trong câu 51. Những điều thấy được đó vượt quá ngàn trùng điều có thể coi như tài hay của thầy bói.
Amen, amen dico vobis/ Quả thật, quả thật, Ta bảo ngươi :
Một câu đặc biệt của Yoan, một công thức long trọng, mặc khải chỉ đặt nơi miệng Chúa Yêsu ( 20 lần). Amen có trong Nhất lãm nhưng không lặp hai lần.

CON NGƯỜI.
Tự nguyên : bar-nasha : Người ( so với VN Con người hay con vật ).
Tước : Theo Do Thái muộn thời thì chỉ “ Trung gian đặc biệt sẽ xuất hiện khi niên cùng thế tận”. Daniel 7: 13-15 : Con Người đã có tính cách đại diện. 4Esd : Vị cứu tinh Đấng chí tôn đã dành sẵn để mưu việc cứu thoát cả tạo thành ( như thế, đồng nhất với Mêsia ). Hênoc ( bản Ethiopie) bị tranh luận nhiều : Thiên Nhân ( quan niệm có lẽ phát sinh ngoài Do Thái ), nơi Do Thái có 2 hình thức :
            - Nhân vật trời cao, hiện còn tàng ẩn, sẽ xuất hiện trên mây lúc niên cùng thế tận để phán xét và làm Dân Chúa nên kiện toàn.
            - Thiên nhân lý tưởng, đồng nhất với người đệ nhất sơ thủy ( quan niệm nầy gặp ở Philô, rồi trong Kerygma petrou và suy luận của các Rabbi muộn thời).
Hai  hình thức có khác nhau nhưng dựa trên một ý niệm Người trên trời, vững trong ý định Thiên Chúa, tức là được làm  hình ảnh Thiên Chúa. Hai hình thức có đụng chạm nhau : Nơi Daniel, Con Người cũng đã có trước rồi, giả thiết bởi việc  sẽ xuất hiện thời sau hết.

Trong Tân Ước:

Xưa thần học đối chiếu Con Người với Con Thiên Chúa. Con Người tức là chỉ nhân tính đích thực của Chúa Yêsu : Một sự khiếm khuyết. Các câu Phúc âm dùng tiếng Con Người chia làm hai loạt :

            - Những lời suy tôn : Nhiệm vụ cánh chung chiếu theo Daniel 7: 13 ( nhưng cũng chen tư tưởng : Yêsu – tiêu biểu nơi Ngài – số sót Israel, rồi toàn thể nhân loại ). Phán xét ( Mt 25: 31tt Mc 8: 38 )
            - Những lời hạ mình : Con Người được liên kết với dung mạo Ebed ( Mc 10: 45  8: 31  2: 10 ). Cả hai tước Con Người và Ebed đã có trước, nhưng điều mới lạ : Yêsu liên kết cả hai và chính vì cả hai đều thông vào tư tưởng “đại diện”, Con Người đại diện cho cả Nhân loại ( Chiếu theo nghĩa thâm thúy nhất của tiếng Người), còn Ebed đại diện cho cả dân Israel. Cả hai ý niệm cho thấy một đa số được thu kết và diễn bày nơi Một nhân vật – Đó là ý nghĩa của tất cả Thánh sử.

Vậy Con Người là chính Yêsu, nhưng Yêsu tỏ mình ra khi mà Ngài xuất hiện trên mây trời để được dẫn đến cùng Thiên Chúa mà lĩnh lấy quyền thống trị vạn vật.

Xét chung, các lời về Con Người nơi miệng Chúa Yêsu thì nhận ra được nơi dung mạo Con Người có hai phương diện : Hoạt động trần gian và mặc khải từ trời. Yêsu là Con Người, ấy là vì Ngài thi hành dưới đất điều đã được Thiên Chúa định về Con Người ở trên trời. Sinh mạng Ngài như chơi vơi giữa hai giới : Thiên thai – Trần gian. Cử chỉ Ngài tỏ ra ở dưới đất một sứ mệnh không thuộc về dưới đất nầy. Ngài hành động không phải chỉ để thực hiện lời tiên tri đã viết trong Kinh Thánh về con đường Ngài phải đi, nhưng mọi cử chỉ của Ngài vạch ra cho người ta thấy được cái vận mạng Ngài diễn ra tại trên trời : Sự nghiệp trần gian diễn ra ý định của trời cao.
Videbitis caelum apertum/ Thấy trời mở ra
Thấy Con Người đến ( Mt 26: 64) tức là chứng kiến cuộc quang lâm của Con Người. Nhưng có nhiều kiểu, nhiều cấp bậc : Tựu trung là khám phá ra ( trong một mặc khải của Cha ) cái phương diện thiên thai, hằng có của sự nghiệp trên trần của Yêsu Nazareth. Yoan là Phúc âm muốn diễn sự tế nhận đó.
Câu 51 có ám chỉ St 28: 12( Angelos quoque Dei ascendentes et descendentes per eam/ Thiên thần Thiên Chúa lên xuống trên Con Người), thay vì per eam, Hipri lại để    (vì sullam – Thang – giống đực ), nhưng chiếu theo mẹo thì cũng có thể đem về Yakob. Trong Bereschith Rabba, rabbi Yannai hiểu về Yakob và trưng ra Is 49:3 ( Pervus meus es tu Israel…/ Ngươi là tôi tớ ta, Israel và hiểu TU là hình ảnh thiên thai của Yakob  (Israel ) vẫn ở trên trời, trong khi xác Yakob đang ngủ dưới đất : Các thiên thần lên cao ngó Hình ảnh, rồi xuống lại dưới thấy ông ngủ ( Chỉ sự đụng chạm liên kết giữa Người trên trời và Người dưới đất).

Vậy công thức kỳ lạ để đáp lại lời xưng hô của Nathanael có ý :
            - Lấy lại truyền thống tiên khởi : Con Người là tiếng xưng hô của Chúa Yêsu để vạch ra địa vị, sứ mệnh, sinh mạng của Ngài. Nước Thiên Chúa ( Mc 1: 15) hay Con Người, tức là những thực tại cánh chung, nay đã xuất hiện trong lịch sử. Nếu vậy, kiểu giải thích của R. Yannai rất có ý nghĩa ở đây về sứ mệnh của Chúa Yêsu : Con Người thuộc hai giới, giới trần gian bày tỏ bản lĩnh thiên thai của Con Người, có tương chiếu mờ hay rõ tùy khi, giữa những cử chỉ trần gian và ý nghĩa hằng có nơi Thiên Chúa.
            - Con người được đặt liên lạc với Ebed YHWH. Cả hai như đã nói là đại diện gồm tóm nơi mình Israel đích thực của Th. Chúa : Yêsu là Israel đích thực trên đó vinh quang Th.Chúa lưu lại. Thiên Thần lên xuống cho thấy Thiên thai và Trần gian đã nên một : Trời đất gặp nhau không phải nơi một thửa đất, nhưng là nơi một Người. Các môn đồ  (Các kẻ tin) được nhìn thấy trên trời nhờ Con Người sinh sống trước mắt họ, vì Người là hình ảnh của Th. Chúa ( Yn 14:9 Qui videt me videt et Patrem ).

Yn 1: 18 Videbitis/ xem thấy :
Không phải là hứa một mặc khải nào sẽ xãy đến sau đời sinh tiền của Chúa Kitô. Lời có đụng chạm với MT 26: 64 Mc 14: 62 và so đó ta thấy rõ : Chủ trương của Yoan – Cánh Chung xãy ra chính nơi Chúa Yêsu sống động trong lịch sử - Đằng khác, lời Mattheu cũng báo cuộc quang lâm của Con Người  xãy đến với việc Chúa Yêsu chết và sống lại  (a domo/cùng lúc!). Lời hứa đây cũng không đem về biến cố nhất định nào trong đời Chúa Yêsu ( Đáng lẽ hiểu được cách riêng về Biến hình trên núi, nhưng Yoan lại không thuật ). Đằng khác, Yoan bắt đầu các Dấu lạ (2: 1) với các lời: Et tertia die/ vào ngày thứ ba…Một tiếng ngụ ý sống lại sau Thương khó, rồi 2: 11, sau dấu lạ thứ nhất, Yoan kết : Hoc fecit initium signorum Jesus…et manifestavit gloriam suam /Đây là dấu lạ đầu tiên Chúa Yêsu làm để tỏ vinh quang của Ngài. Như thế, cả chuỗi dấu lạ  theo sau và chóp đỉnh là dấu cuối cùng nơi thập giá và sống lại, chính là thị kiến thấy trời mở ra và thiên thần lên xuống trên Con Người. Các dấu ấy lại là lịch sử. Verbum caro factum est et vidimus gloriam ejus/ Ngôi Lời đã trở nên người phàm và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang Ngài . Lịch sử Phúc âm đích thị là một khải huyền đã nên hiện thực.
Mc1: 15 kết thúc nhập đề vào appropinquavit Regnum Dei/ Nước Thiên Chúa đã gần : Regnum Dei là để cho hết các đoạn theo sau. Thì đây, Yoan dẫn các chứng chỉ đến Con Người, và Con Người là đề tài mọi diễn giải  theo sau.

III. Bình luận Lịch sử.
Yn 1: 19-34 giả thiết truyền thống như trong Nhất lãm về:
            - Lời Yoan TG về Đấng sẽ đến ( Mc 1: 7t Mt 3: 11 Lc 3: 16 ).
            - Yêsu chịu thanh tẩy ( Mc 1: 9-11 )
            - Có lẽ cả việc Yoan TG sai hai môn đồ đến ( Mt 11: 2-6 Lc 7: 18-23)
Yn 1: 35-51 việc kêu gọi các Tông đồ đòi phải nghĩ đến những trình thuật Nhất lãm ( Mc 1: 16-20 // Mc 2: 13t // ) - Về tên Kêpha ( Mc 3:16  Lc 6: 14 Mt 16: 18 ).

1/. Trên bờ sông Yordan :
            Yoan đồng ý với Nhất lãm về hoạt động của Yoan TG trong sa mạc, về việc Yoan loan tin sứ giả của Thiên Chúa thanh tẩy trong Thần Khí, về thanh tẩy Chúa Yêsu. Đó là dịp mặc khải tư cách Mêsia của Chúa Yêsu.
            Phái đoàn Do Thái : Việc gửi phái đoàn đến nói được là cái nhiên và cho ta biết rằng trước việc hoạt động kinh dị của Yoan, quyền bính tôn giáo của Do Thái đã chọn lập trường. Đằng khác, Yoan muốn nhấn vào trách nhiệm Do Thái cố tình ( Coi Yn  5: 33). Các điều Yoan phủ nhận lại là điều Hội Thánh phải đương đầu với phái của Yoan TG sau nầy.
            Tri thức của Yoan TG không phù hợp với Mt 11: 3-6. Phải nói, Yoan đã đặt nơi miệng Yoan TG điều chính mình hiểu về Chúa Kitô.

2/. Các môn đồ:
            Không thể giảng hòa Yoan với Nhất lãm ( Không thể nói tạm kêu gọi rồi trên hồ Tiberiade, lại kêu gọi lần nữa). Nhất lãm ( Mc ) có tính cách khái lược, nhấn đến chủ đề đạo lý về ơn kêu gọi và việc từ bỏ mà lại không nhấn vào những nét cụ thể. Yoan có điểm đáng để ý và phải nói là có tính cách lịch sử : Các môn đồ trước hết đã thuộc nhóm môn đồ Yoan TG. Chúa Yêsu khi kêu gọi đã để ý đến những ý hướng thiêng liêng họ đã có bởi đã được gần gũi  với Yoan ( Trông đợi sự phán xét, tìm ơn cứu thoát, sẵn sàng từ bỏ). Họ đã được dọn sẵn, điều mà chúng ta không thấy nói rõ trong nhất lãm. Đằng khác, phải nhận là Yoan không chú trọng đến chính việc kêu gọi các môn đồ cho bằng việc thu thập các chứng chỉ  trong trình thuật, tuy có tác giả nói là sống động cụ thể, nhưng thật sự rất gọn, nói được là chỉ vẻn vẹn nơi ít nét cốt yếu. Rồi, việc xưng tỏ đức tin về tư cách Mêsia kia quá sớm ( về điều nầy, Nhất lãm còn giữ lại được bước tiến cái nhiên hơn). Ngay việc đặt tên Kêpha cho Simon cũng có lý mà nói là do một chủ đề đạo lý. Đằng khác, không nên quên có những chi tiết nói đến chỉ vì ý nghĩa tượng trưng.

Yoan 2: 1 – 4: 42: Vetera transiderunt, ecce facta sunt nova ( 2Cor 5:17)
                                  ( Cũ đã qua đi, và nầy mới đã thành sự )
 Gồm có hai trình thuật và hai diễn từ chiếu theo một chủ đề : CŨ – MỚI.

I. Bố cục.
   - 2: 1-10   Nước biến thành rượu.
   - 2: 14-19 Đền thờ mới.
   - 3: 1-21   Tái sinh.
   - 4: 4-42   Nước giếng và nước bằng sống.
                    Đền thờ Yêrusalem và Garizim – Thờ trong Thần Khí – Sự Thật.

1/. Phép lạ Cana.
            Trình thuật thực tế ( Coi: Chum nước, lời hài hước của câu 10), nhưng kết : Initium signorum, mani estavit gloriam… bởi đó chắc có ý sâu. Nhưng ý nào ? Có nhiều giải thích, nhất là nơi các nhà chú giải Công giáo ( nhấn đến vai trò Đức Mẹ ), nhưng có lý mà hiểu nơi sự đối chọi : Nước – Rượu ( Nhiệm cục cứu rỗi mới và cũ ).
            Vinh quang Chúa Kitô được tỏ bày ra – bởi dấu lạ diễn ra sự thật nầy là, với việc Chúa Yêsu xuất hiện, trật tự tôn giáo cũ được thay thế bằng một trật tự mới. Dấu lạ diễn ra ngày thứ ba, theo truyền thống, đó là ngày Chúa Yêsu tỏ vinh quang trong sự sống lại từ cõi chết. Hợp với quan điểm thánh sử : Tất cả sự nghiệp của Lời mang tính cách  Ngày thứ ba”, ngày vinh quang của Ngài.

2/. Tẩy uế Đền thờ.
            Đền thờ tượng trưng cho cả trật tự tôn giáo. Trình thuật không khác bao nhiêu trình thuật Nhất lãm. Nhưng khi giải thích thì khác :
   - Bởi những xuất xứ Kinh Thánh ( Có lẽ Zac 14: 21và chắc Tv 69:10)
   - Bởi lời đáp lại việc chất vấn của Quyền Do Thái. Muốn hiểu phải tựa vào quan niệm DẤU của Yoan - Một điều thực sự có xãy ra, nhưng mang theo một ý nghĩa sâu thẳm hơn là biến cố có thực – Có thể so với Yn 6: 30, xin dấu lạ, Yêsu chối không cho thêm dấu lạ nào khác, nhưng Ngài giải thích lại điều đã xãy ra. Đây cũng hiểu cách ấy : Không phải hứa thêm dấu lạ, nhưng giải thích việc Tẩy uế Đền thờ vừa diễn ra.Yoan dùng Tv 69: 10  (Khốn khó của một người trung tín với Đền thờ).
            Nhất lãm coi việc tẩy uế Đền thờ như điều quyết định dẫn vào Thương khó. Trong vụ kiện Chúa Yêsu, đó là một chứng buộc tội. Như vậy, lời về Đền thờ : Trật tự tôn giáo được thay thế : Thương khó và ( lặp lại Ba ngày sau ) Sống lại.
            Yoan 2:21 : Trình tự trong việc thay cũ đổi mới đồng nhất với trình tự Chết và Sống lại của Chúa Yêsu.

3/. Đàm đạo với Nicôđemô : Đối thoại chuyển qua độc thoại.
Đối thoại : Sinh lại.
            Nicôđêmô không biết ( Đạo Do Thái chính cống không biết ). Đạo lý không do những lời như Mt 18: 3, cho bằng do quan niệm chung luận  Kẻ lành được biến đổi trong Vinh quang của thời sẽ đến ( Mt 19: 28 Palingenesia). Chung luận của Yoan : Tái sinh không còn phải chờ nơi vị lai xa xăm, mà đã nên điều kiện vào Nước Trời ngay bây giờ  (Như thế, quan niệm truất bỏ được những gì là cục mịch nơi quan niệm Hy Lạp trong các đạo bí truyền ).
            Sinh lại giả thiết hai giới SARX – PNEUMA. Chủ đề như vậy là việc người ta được chuyển từ một giới thấp hèn (sarx) mà đến một giới cao siêu (pneũma), tại đây mới có vita aeterna / Sự sống đời đời – Việc chuyển qua đó đã được tượng trưng bằng Nước hóa Rượu, Tẩy uế Đền thờ ( Phá đi-Xây lại).
            Cách nào ? Không nói, nhưng tiếng Natus ex spiritu /sinh bởi Thần Khí, nhắc đến 1: 13 Ex Deo nati sunt / Bởi Thiên Chúa mà được sinh ra – Do bởi  Chịu lấy Logos  (Pisteuein). Tái sinh đây không có gì giống như tái sinh của thế giới La-Hy. 

Độc thoại : Yn 3: 11-21
            Nói đến unigenitus/Đấng từ trời, từ trời xuống đem theo Sống và Sáng cho nhân trần. Người bởi trời có xuống khu vực Sarx và lên lại giới Pneuma thì tái sinh mới có thể xãy ra được. Sự có thể đó nên hiện thực cho những kẻ Tin vào Con (1: 13).
            13-15 : Tái sinh dựa trên điều kiện“Exaltatio Filii hominis/ tôn vinh Con ngươi”.
            16 : Sự Xuống-Lên của Con Người được chiêm ngưỡng nơi Gốc : Lòng Mến của Thiên Chúa ( Yoan sẽ bàn về phần cuối từ chương 13 trở đi)
            17 : Sống chuyển qua Sáng. Sáng thì phân tách : Phán xét.

Diễn từ :
 Vạch ra cả sứ vụ của Chúa Kitô ( Dùng ý tưởng căn bản : Tái sinh – đoạn, chêm vào các ám chỉ sau nầy mới bàn đến).
Yn 3: 22-36 : Cũng làm theo đối thoại – Độc thoại. Có tính cách toát yếu và phụ chương để giải thích thanh tẩy của Hội Thánh : Trong Nước và Thánh Thần.

4/. Đàm đạo với phụ nữ Samarie.
Cách trình bày theo kiểu một kịch nhỏ. Đối thoại chính chia làm hai:

7-15 : NƯỚC SỐNG :
Đi từ nước luôn luôn chảy đến Nước hằng sống. Chủ đề liên kết với trước : Cana ( Nước : Trật tự tôn giáo Do Thái) và 3: 5 ( Nước – Thánh Thần ). Ở đây, đặt tương phản giữa hai thứ nước : Nước giếng Yakob – Nước Sống. Nước ở đây chắc có ý nghĩa tượng trưng:
            - Đạo Do Thái ( Rabbi): Nước: Torah ( Nguồn sống ) Yoan : Đó là nước giếng Yakob, đối vố Nước Hằng Sống.
            - Philô : Nước tượng trưng cho những thực tại cao siêu. Yoan : Lex per Moysen / Gratia et Veritas per Jesum Christum/Lề luật bởi Môsê, ân nghĩa và sự thật bởi Chúa Yêsu Kitô.
Các cảnh của Yoan : Người đối thoại hiểu lầm ( Kẻ đứng trong giới trần gian không sao vừa tầm được với giới của Thiên Chúa). Vì thế, vấn đề quay về vấn đề tôn giáo trực tiếp: Đền thờ. Nên để ý tính cách tương đương đoạn hai : Nước – Đền thờ.

16-27 : Đền Thờ.
Khởi bằng đời sống lôi thôi của người phụ nữ ( Nhưng có ám chỉ đến kiểu sùng bái hỗn hợp của dân Samarie – Các tiên tri gọi thờ như thế là ngoại tình – Hiện tượng hỗn hợp đó là điều phổ biến). Đứng trước thế giới đó, Tin lành phải trình bày cách nào ? Dựa trên truyền thống Do Thái hay dựa trên tư tưởng hỗn hợp trong thế giới La-Hy ? Yoan không dừng ở đó : Dù Yerusalem hay Garizim, vẫn thuộc hạ giới ( Deorsum – Sarx ).

Chúa Yêsu khai sáng thờ phượng IN SPIRITU ET VERITATE. Liên lạc với tái sinh: Natus in Spiritu : - Luôn được tiếp tế Nước Sống.
                               - Dâng lên Thiên Chúa thờ phượng xứng với Thiên Chúa.
Kết :  Chúa Yêsu, Mêsia ( không chỉ báo tin ít sự thật ) nhưng khai mạc một kỷ nguyên mới về tôn giáo : Veni hora et nunc.
 28-42 : Dàn cảnh theo kiểu tấn kịch ( Các vai chủ động đi lại ):
            - 28 -30 39 : Phụ nữ loan tin cho dân Samarie : Một quan niệm thiếu sót.
            - 31-38 :Chúa Yêsu cùng môn đồ. Nhấn đến sự “ Vâng phục” ( tùy thuộc ) của Chúa Yêsu ( sẽ diễn đoạn 5 ) hoàn thành ( Perficere opus ejus/Chu toàn công việc 17: 4) và không còn đâu xa : Sứ vụ của Chúa Yêsu : Cánh Chung. Bởi đó, kết luận : Scimus quia hic est vere Salvatore mundi / Đây thực sự là Đấng cứu độ nhân loại.

2:1 – 4: 42 Trình bày sứ vụ của Chúa Yêsu.
Ý Chính : Một luồng sống mới cho nhân loại nhờ Logos làm người, nhưng diễn ra theo nhiều kiểu, để cho thấy nhiều phương diện. Liên kết với chủ đề thần học của Yoan, nên nói được giai đoạn nầy chất chứa cả Tin lành.
Hành văn : Cân đối và liên kết:
            Trình thuật : Cụ thể ( mặt sarx trong chủ đề et Verb. Caro)
            Diễn từ : Vạch ra Logos của chủ đề đó. ( Thực tại hằng có Cánh Chung được thể hiện nơi biến cố thời gian ).
            I / Một rabbi ( điển hình cho nhiệm cục mặc khải cũ)
            II/ Một phụ nữ Samarie : Đâị diện cho thế giới bên ngoài. Tin lành cho Do Thái trước, rồi cho cả dân ngoại.
            Kèm thêm phụ chương: Cắt nghĩa thêm. Nối trước và sau bằng hình ảnh hay ý tưởng ( không bàn rộng mà chỉ phớt qua để gợi ý sau nầy).

II. Chú giải.

Câu 2:1-11 : Có 3 điểm chính làm đầu đề cho mọi tranh luận về Phép lạ Cana :
            - Đức Mẹ xin phép lạ, hay là chỉ tỏ nổi băn khoăn của chủ gia.
            - Lời đáp của Chúa Yêsu có nghĩa gì. Quid mihi et tibi.
            - Giờ nói đây là gì. Câu kéo phải hiểu làm sao?
Nên để ý mạch lạc câu 2: 1-11 tiếp tục với đoạn I, kết thúc các điều đã xãy ra từ câu 1: 29 là các chứng chỉ và chứng tá, mà chứng tá nền tảng cho Đức Tin Hội Thánh là các môn đồ của Chúa. Nên nói được, từ câu 1: 29 ý hướng về các tông đồ và 2: 11 là kết thúc cho chiêu tập chứng nhân, nền tảng cuối cùng là vì Chúa Yêsu tỏ vinh quang – Họ thấy vinh quang của Ngài – Môn đồ tin. Đặt liền với câu 1: 51, đây là khởi sự thi hành lời đã hứa. Vậy, nghĩa tiên khởi không được bỏ ngoài là sự Hiển Linh của Cha. Vì thế, 2: 1-11 trước hết là một trình thuật phép lạ.
Nơi Yoan, trình thuật đó xây dựng trên tương phản giữa hai tình cảnh:
   - Tình cảnh khốn quẫn, thất vọng, không lối ra.
   - Giải quyết tình cảnh cách lạ lùng bất ngờ, hay không như người ta ngờ. ( Nhất lãm : Người xin được sở nguyện miễn là tin ). Với Yoan , sáng kiến về phép lạ chỉ có nơi Yêsu:
            - Hoặc không xin mà được. ( 2: 3  5: 7  6: 5-9  9: 6-8  17: 36-38 )
            - Hoặc có xin nhưng Chúa quay qua kiểu khác ( 4: 47  11: 3   21  24…)
Cana : Sự cùng quẫn của người ta được giải quyết bằng một sự sung mãn dư dật lạ lùng.
Chiếu theo kiểu trình thuật của Yoan, chớ vội lấy mỗi câu như đúc hẳn lại biến cố xãy ra, nhưng phải để ý đến kiểu soạn tác, ý nghĩa của tác giả.

Câu 1-2 : Trình bày hoàn cảnh.
Die tertia/ Ngày thứ ba: Nếu kể từ câu 51 cộng với 19, 29, 35 và thêm mane/buổi sáng (41) cùng một ngày đi đàng không nói đến thì có một tuần. Tính với lần kêu gọi thứ nhất lại là ngày thứ ba. Thực sự, muốn tính một tuần thì phải giả thiết nhiều.
Nuptiae/Tiệc cưới : ( Tiệc thời Mêsia: Khải huyền 19: 7-9 , chuyển sang tượng trưng cho tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh ). Đây không thấy ám chỉ rõ ràng.
Cana Galilaeae : Hiện tại có 3 nơi : Kefr Kenna, Quanat el Gelil, Ain Qana. Bây giờ, người ta đặt nơi xãy ra phép lạ tại Kefr Kenna, cách Nazareth 6 km.
Mater Jesu ibi / Mẹ Yêsu ở đó : Các tác giả Công giáo thường đặt liên lạc 19: 25tt và cho là một inclusio semetica : Để vạch vai trò của Đức Mẹ. Tư tưởng nhiều ý nghĩa nhưng cũng phải nhận không rõ lắm.
Vocatus est et Jesus/ Chúa Yesu cũng được mời : Mời thêm sau và vì Ngài và các môn đồ mà rượu thiếu : Khá vẩn vơ. Yoan không nói. Lagrange : Vì Nathanael. Phong tục : Suốt tuần, chỉ có những chàng phù rể mới ở thường trực, khách khứa ra vào tùy ý, không có tục bắt phải ở luôn.
Discipuli ejus/ Các môn đồ của Ngài : Tính theo trình thuật 35-51, chỉ có năm người. Yoan không thuật còn kêu gọi ai khác, nhưng ở 6: 67 đã có Mười hai. Đây phải hiểu sao ? Barrett, Bultmann : 12.

Câu 3-5 : Dọn phép lạ - Điểm tranh luận gay gắt hơn cả.
Vinum non habent /Họ không có rượu nữa.
Nhiều tác giả : Xin làm phép lạ. Họ dựa vào tri thức của Đức Mẹ về tư cách Con mình – vì kinh nghiệm ( Truyền tin ) – hay vì được báo cho biết các thiêng liêng nào khác. Tuy nhiên, thực sự cứ đọc như chữ viết thì chẳng có gì hơn là tỏ bày nổi quẫn bách của gia đình tân hôn.
Quid mihi et tibi/ Giữa tôi và bà, nào có việc gì
ET ( KAI ): Có thể mang nhiều ý nghĩa.
Một thành ngữ Hy Lạp cũng như Hipri có thể có nghĩa:
   - Giữa hai người chúng ta ( Ego-Tu ) có gì nghịch nhau đâu. ( Th.phán 11: 12  2Kýsự 35: 21  2Sam 16: 10  1Vua 17: 18.
   - Giữa hai người chúng ta có gì thân, hay chung với nhau đâu ?( Os 14: 9  2Vua 3:13 Jos 22: 24 ).
Thành ngữ ấy nếu theo một câu hỏi là từ chối – Nếu không là vạch sự kiện ra. Nhưng cả hai nghĩa có thể nên rất yếu. Nếu lời Vinum non habent không xin gì cả, mà chỉ là một nhận xét thì Quid mihi et tibi chỉ có nghĩa nhẹ : “ Bà muốn gì ”. Như thế, Yoan muốn cho ta biết sáng kiến là của Chúa Yêsu. Đức Mẹ không ngờ gì cả - chỉ cho biết tình trạng khốn quẫn. Chúa Yêsu – Yoan muốn nói – cho Đức Mẹ hiểu: Ngài có sáng kiến, Ngài có cách biến đổi hoàn cảnh.
Mullier : (Coi F.M. Braun La Mère des fideles, nhấn cách riêng đến lời nầy, và đặt liên lạc với Eva. Nhiệm vụ và vai trò Eva mới). Lời nầy không phải là lời cứng cỏi, bất kính. Tục lệ người Tiểu Á, Á Rập khi ở nơi công chúng không bày tỏ liên lạc giữa mình và phụ nữ..
Nondum venit hora mea  / Giờ tôi chưa đến.
Hora : Giờ chết ; 7: 30  8: 20  ( 12: 23 27  13: 1  17: 1)
Hora : Bất cứ một giờ nào được định, kèm với “Đến” 16: 2  4: 25  5: 25  28.
Hora của Con Người không biết có đồng nhất với chết hay không nhưng liên lạc với sự Con Người được suy tôn ( 12: 23  17: 1  13: 1 ).
            Đằng khác, nên nhớ quan niệm Do Thái về Mêsia : Ngài ẩn trước để có một lúc kia xuất hiện – Thời xuất hiện được đánh dấu bằng những  Điềm thiêng dấu lạ Ngài làm để người ta nhận ra Ngài. Trong Yoan, Hora có thể chỉ thời xuất hiện cách vinh quang bằng phép lạ - Mạch lạc hiện tại ( 1: 51  2: 11 ) cho phép hiểu về giờ đó.
Hiểu giờ theo nghĩa GIỜ tỏ vinh quang trong phép lạ chỉ có một vấn nạn : 7: 30  8: 20, công thức hầu như in đúc. Ở đây chắc có ám chỉ đến cái Chết – Nhưng theo nhãn giới Yoan – thì những câu như vậy còn đem về vinh quang cuối cùng hơn là Chết ( Phải ngang qua Sống lại và được tôn dương Bên hữu Cha là cùng tận), nhưng trước đó còn vinh quang khởi sự  trong các dấu lạ.
Bây giờ, phải hiểu sao mấy lời trao đổi giữa Chúa Yêsu và Đức Mẹ :
Quodcumque dixerit vobis facite /Ngài có bảo gì hãy làm theo ( Stt 41: 55 ).
Đức Mẹ chắc rằng Chúa Yêsu sẽ can thiệp sao đó, còn can thiệp cách nào chính Mẹ không biết. Sao Mẹ biết Ngài can thiệp ? Nếu chúng đành lòng loại hẳn những tưởng tượng của nhiều nhà chú giải ( Đưa mắt, bộ điệu, nhủ thầm, soi sáng bên trong…) thì phải nói Mẹ hội ra ý kia bởi Lời Chúa Yêsu vừa nói.
Vậy, nếu 3: Đức Mẹ xin phép lạ, 4: Chúa Yêsu từ chối, bằng quid mihi et tibi, và ra lý giờ chưa đến, 5: Đức Mẹ, tuy vậy, hiểu Chúa Yêsu sẽ can thiệp, 6tt: Chúa Yêsu làm phép lạ. Đó là một chuỗi khó khăn. Mọi cách trả lời chỉ là dấu đầu hở đuôi, thí dụ : Giờ đã đổi bởi lời Mẹ xin…
Vậy, câu 3: không xin phép lạ hay can thiệp gì cả (Yoan dùng để tả tình trạng và làm sao cho Chúa Yêsu thấu biết tình trạng quẫn bách). Câu 4 : Đức Mẹ được Chúa Yêsu hướng ý tưởng về việc Ngài muốn can thiệp.

Tuy nhiên, nondum venit hora mea, giờ chết đến đây làm gì và liên lạc làm sao với mạch lạc? Chỉ có khi nào từ ngữ của Yoan câu thúc thật sự mới nên hy sinh mạch lạc để giữ nghĩa. Giờ chết, từ ngữ của Yoan không bắt buộc như thế, nên giờ là giờ tỏ vinh quang bằng những dấu lạ.
Làm sao lại nói giờ chưa đến ngay lúc Ngài toan tính làm phép lạ đầu tiên mà khai mạc sứ vụ Mêsia của Ngài?
Nondum venit hora mea giải quyết theo mạch lạc là hiểu lời nầy như một câu hỏi: Giờ Tôi phải tỏ vinh quang ra chưa đến sao? Hiểu ngầm ngay rằng : Đến rồi chứ ! Nhiều giáo phụ đã hiểu như vậy : Gregorio Nyssa, Theodoro Mopsuesta, Ephrem ( trưng giải thích người khác, hiện nay, Boissmard – dựa trên bài tạp chí của Hugo Seemann). Về mẹo, có thể bênh đỡ bằng những lời như : Lc 23: 39 Yn 18: 11 Mc 4: 41, nhất là trong một hoàn cảnh tương tự Mc 8: 17.
Vấn nạn chính là những câu Yn 7: 30  8: 20 Vì công thức tương tự.

Câu 6-8 : Phép lạ
Lapidaae hydriae sex/ Sáu chum bằng đá
Đá : Chum vại bằng sành thì nhuốm ô uế, đá thì không.
Sáu: Có tác giả nghĩ có ám chỉ tượng trưng ( Số 6: Khiếm khuyết, đạo Do Thái còn khiếm khuyết, Chúa Yêsu làm hoàn bị ), tuy nhiên, không có gì bảo đảm ( Sao Chúa Yêsu không dùng 7 cho hoàn bị).
Metretas : bath ( 45 litres) 2 x 45 x 6 : 540 litres, 3 x 45 x 6 : 810 litres.
Architriclino/ quản tiệc : Không có chứng chỉ Do Thái đương thời để rõ vai trò người quản tiệc ( La Hy có arbiter bibendi, nhưng là người chủ sự bàn tiệc).

Câu 9-10 : Kết thúc.
Chuyện phép lạ thường kết thúc bằng một lời cảm thán hay chứng thực để vạch ra tính hiện thực hay sáng lạng của sự lạ. Yoan không nói bằng một lời nhưng bằng một cảnh cụ thể. Bengel : Ingnorantia architriclini comprobat bonitatam vini; scientia ministronum, veritatem miraculi.
Đúng theo kiểu trình thuật sự lạ : Không tả phép lạ xãy ra cách nào. Lời hài hước của người quản tiệc : Không đúng với thói tục xưa cũng như nay – Nhưng có thể là hài hước chế nhạo chủ theo kiểu Harpagon, hay những chủ quán bịp bợm – Hay chính Yoan ra phương châm để làm nổi bật phép lạ và hướng về ý nghĩa tượng trưng.

Ý nghĩa tượng trưng: Dựa trên các tiếng Vinum, secundum purificationem Judaeorum, signum, manifestare gloriam suam, cùng tertia die.

VINUM ( Quả tác giả có nhấn đến ý đó )
Cựu Ước: Rượu – Một ân huệ của Thiên Chúa, đi với chủ đề giao ước  ( Tv 104: 14 Tlt 32: 13-14  7: 13  28: 51). Sung mãn về rượu, một yếu tố khi dân chúa được phục hồi.  (Amos 9: 14 Os 14: 8  2: 11 Jer 31: 12  Is 62: 8. Đáng để ý Stt 27: 25  49: 11-12). Rượu đi với sự hân hoan ( Tv 104: 14 Tphán 9: 13 Sỉ 40: 20). Tóm lại, rượu là hậu quả và là dấu Thiên Chúa chúc lành – thành phần của thời Mêsia _ Dân Chúa vững chãi trong đất Chúa hứa, dấu hiệu cho sự sung sướng hân hoan thời Mêsia.
Như thế, đợt một của nghĩa tượng trưng: Rượu chỉ Vũ trụ mới Đấng Mêsia đem đến, nhiệm cục mới thay thế nhiệm cục cũ. Nhưng đối chiếu cách kêu gọi môn đồ đoạn trên  (Sự Khôn Ngoan kêu gọi đồ đệ ) thì có thể so sánh với Ngạn ngữ 9: 1-15 ( Như thế, Yêsu – Sự Khôn Ngoan – kéo môn đồ vào tiệc rượu : Dạy dỗ sự khôn ngoan đích thực), nhưng  cũng phải nhận là hơi xa.
So chiếu với DOXA ( Gloria ) nói đến, thì tượng trưng liên kết với toàn bộ Yoan : Tượng trưng cho điều xãy ra trong cả sứ vụ Chúa Yêsu là Mặc khải Doxa Ngài. Trước tiên quyền năng nơi dấu lạ chứng tỏ Ngài là Mêsia. Đối với Yoan : Thần tính của Đấng mặc khải, chính Ngài mặc khải “ Nomen Patris”.
Có thể Yoan còn nghĩ đến Thánh Thể, và như thế, phép lạ Rượu song song với phép lạ Bánh, nhưng thực sự không tỏ lắm. Tuy nhiên, điều khá chắc là “ secundum purificationem Judaeorum / nghi lễ thanh tẩy Do Thái so với truyền thống Nhất lãm khi nói đến rượu ( Mc 2: 22// ): Nhiệm cục mới đến thay thế cho cả trật tự tôn giáo Do Thái – cho hết mọi tôn giáo ở cấp bậc đó – Tất cả những gì khác biệt với VERITAS.

SIGNUM : Do lai Cựu Ước : Sự lạ Xuất hành.
Yoan dùng signa/dấu lạ (Semeĩa)  cách riêng (Nhất lãm : Postestates). Phép lạ ut signa : Biến cố có ý nghĩa tiêu biểu cho Postestas Christi. Đức tin có cấp bậc tùy vào việc hiểu biết các signa.
Có những cách coi signa không thể đem đến Đức Tin ( 2: 10  6: 26  11: 47). Phép lạ thường gây nên một lòng tin nào đó : Rất khuyết điểm ( Như  4: 48 và Chúa Yêsu trách kiểu coi phép lạ như thế và trách cả lòng tin gây nên như thế mà thôi ).
Thường thì phép lạ bắt chú trọng đến chính Người làm phép lạ ( 3: 2  9: 16  4: 19  6: 14 ), nhưng lòng tin lú lên đó phải vượt quá đi để thấy Người làm phép lạ đó Con Thiên Chúa   Videre gloriam ejus / Thấy vinh quang Ngài ( 2: 11  20: 30-31).

GLORIA : (Coi Yn 12: 41 Is: Thấy YHWH 6: 1)
Yoan đồng nhất vinh quang Chúa Kitô với vinh quang Thiên Chúa : Không những Chúa Kitô ở trong Thiên Chúa, mà còn xãy ra là khi Thiên Chúa tỏ vinh quang Ngài, thì chính Chúa Kitô xuất hiện, chính Chúa Kitô mà người ta thấy ( Coi Yn 8: 56 Stt 15: 5-6 ) Doxa của Thiên Chúa, đó cũng là quyền năng của Ngài, và cách nào đó, chính bản tính của Ngài. Các phép lạ tỏ cho ta Con Thiên Chúa, với tư cách là “ Những cách diễn bày ra quyền năng Ngài”. Và đây, thần học Yoan dùng tượng trưng : 9: 5 phép lạ đó là tượng trưng cho quyền năng thiêng liêng của Ngài. Chính với tư cách là ánh sáng thế gian mà Ngài làm phép lạ đó (9: 39). 11: 25: Chính vì Ngài là sự sống ( Sự sống, bản tính của Thiên Chúa, sống thiêng liêng nhưng hoạt bát đến đổi sự sống thân xác chỉ là một phản ảnh. Cuối cùng, phép lạ là chính Quyền năng đang hiện hành : Thấy phép lạ như phải thấy là đạt thấu và chiêm ngưỡng chính Quyền năng thiêng liêng.

Signum – Gloria : Liên lạc đã đặt từ phép lạ đầu tiên, rồi sẽ nói lại trong phép lạ cuối  (11: 4  40). Mọi phép lạ đều có chấp chứa vinh quang, chẳng những thế mà còn trong tất cả sự nghiệp Chúa Yêsu ( 12: 28), nhưng vinh quang cách đặc biệt nhắm vào cuối đời Chúa Yêsu.

Tertia die : Một ám chỉ nhẹ nhàng đã được đặt ngay phép lạ tiên khởi. “ Cả chuỗi các dấu lạ được lĩnh hội dưới ánh sáng ngày thứ ba”. Chỉ có thế, phép lạ Cana mới diễn tả nhiệm cục mới hiện hành giữa trần gian.

VẤN ĐỀ LỊCH SỬ.

Xét về phép lạ, thì phép lạ nầy cũng gợi nên những vấn đề như bất cứ một phép lạ nào khác của Chúa Yêsu ( Chẳng hạn phép lạ Bánh). Nhưng phép lạ nầy, ngoài tư cách riêng cho Yoan ( không có trong Nhất lãm phép lạ tương tự như thế : Bất toại, mù, chết được thoát nạn…đều có gặp trong Nhất lãm, tuy khác nơi chốn…) thì lại còn thêm điều nầy : Thế giới Hy Lạp có lắm chuyện như thế nói về thần Dyonysus ( Bacchus ). Vị thần nầy chẳng những là người khám phá ra cây nho, mà còn biến nước thành rượu được. Như thế, nơi thế giới dân ngoại – độc giả của Yoan – người ta có cái gì tương đương nơi phép lạ của Chúa Yêsu.
Vì thế, có ít tác giả cho rằng Yoan dùng một sự tích truyền thống ngoài Phúc âm mà đem vào, cùng cho ý nghĩa của những logia ví dụ Rượu và Bì rượu vào ( Mc 2:22// ), hay là dùng một truyện đã có trước, muốn điển hình chân lý diễn ra trong các logia nói trên, để diễn bày : Với Chúa Yêsu, đạo Do Thái đã bị truất phế.
Đáp lại thì cũng vô hiệu : đây hoàn toàn do phỏng đoán ( không lẽ vì dân ngoại có chuyện tương tự, mà Chúa Yêsu không thể làm phép lạ như thế), hay một tiên kiến về điều phải chăng ( ít người cho phép lạ nầy phàm tục, không xứng với tư cách Chúa Yêsu, tại sao ? ).

Yn 2: 12-22 : DẤU ĐỀN THỜ.
Mạch lạc :  Tại Cana, Chúa Yêsu tỏ vinh quang của Ngài, địa vị Mêsia. Đây, Đền thờ cổ kính, độc nhất – Một dịp long trọng – Đại tư tế soạn sửa đi vào nơi cực thánh. Cana, túng quẫn được thay thế bằng sung mãn dư dật. Đây, điều tạm bợ nhường chỗ cho thành tựu. Như thế, cả hai cảnh cũng đều qui vào : Yêsu là Mêsia. Cả hai cùng hướng vào mặc khải cuối cùng.
Tuy nhiên, dấu Đền thờ vạch rõ ra đến sự bãi bỏ Giao ước cũ – nhấn vào mầu nhiệm Chúa Yêsu và sự mù tối của Do Thái ( Cana : Môn đồ tin – Yêrusalem : Kết thúc cho thấy lòng tin nông nổi hời hợt của dân chúng).
Sau đó, Yoan trình bày các mẫu người đứng trước Đức Tin ( Nicodem, Người phụ nữ Samarie, một viên chức – có lẽ ngoại giáo ).

No comments: