PHỤ LỤC
*
Ơn Cứu-Chuộc
trải rộng trên mọi việc con người làm
Ngày
7 tháng 7 năm 1871, thánh An-phong đệ Ligôri được Toà thánh chính-thức tuyên-phong
làm Tiến-sĩ Hội thánh, cộng thêm một số hàm-lộc khác, trong đó có việc ca-tụng
thành-quả đặc-trưng/đặc-thù mà thánh-nhân đã đạt được trong những năm tháng sống
đời mục-vụ. Thành-quả rõ rệt nhất, là việc thánh-nhân đã cải-tân tinh-thần bác-ái/sủng-mộ
mà các Kitô-hữu vẫn có với Giáo Hội.
Thánh
AnPhong lên đường rao giảng cho mọi người biết: ta được tràn đầy Ơn Cứu-chuộc, là
do Chúa tặng ban một cách “nhưng-không”. Và, huệ-lộc thánh An Phong đạt được, đã
trở-thành linh-đạo cho hết mọi người chứ không chỉ riêng ai, ở đâu đó.
Sĩ-tử
Dòng Chúa Cứu Thế khắp nơi, được giao-phó trọng-trách chuyển-trao cho dân thường
ở huyện đường-lối hiệp-thông với Thiên-Chúa vốn dĩ là việc rất quan-yếu. Tác-giả
Sam Boland, từng ghi trong sách do ông viết, lại đã bảo: “Nhiều người lâu nay vẫn nhớ tâm-tình yêu mến/cảm-kích mà từ lâu các nhà
thừa-sai đã đem đến ở nhà thờ hoặc nơi toà hoá-giải với lời khuyên-răn họ cần đến”.
(X. Sam Boland, Faith of Our Fathers – Bài
Dẫn-nhập trang 1)
Sĩ
tử Dòng Chúa Cứu Thế do thánh An-Phong lập, vẫn có thói quen tìm về với Hiến-pháp
của Dòng trong đó nói: “Sứ-vụ rất quan-trọng
của Dòng, là tiếp-tục công-cuộc cứu-chuộc do Chúa tặng ban”. Ngày nay, ta
cũng nên chú-trọng đến sứ-vụ thừa-sai đại-phúc, bởi lẽ việc này vẫn rất cần và là
điểm son tạo uy-tín cho con tàu cứu-chuộc của Dòng. Đó, còn là trọng-tâm công-cuộc
thừa-tác ta đến phục-vụ mọi người bằng việc cung-cấp nền thần-học có chất-lượng,
bằng việc hoá-giải mọi sai sót, bằng việc chuyên-chăm nguyện-cầu và những việc như
thế, hầu tiếp-tục hiện-thực Ơn Cứu-chuộc, nơi cuộc sống.
Nay,
đã đến lúc hội-luận này đi vào kết-cuộc. Nhân đây, tưởng cũng nên suy thêm một điều
cuối nữa là: “Ơn Cứu-Chuộc trải rộng trên
mọi việc con người làm”. Thật ra, có nói thế, cũng không đủ để bảo rằng: sứ-vụ
thừa-tác ta thực hiện, không chỉ có tầm quan-trọng đối với ta mà thôi, nhưng còn
cho mọi người trong/ngoài thánh Hội, nữa. Nói thế, có lẽ cũng chưa đủ, bởi: trên
thực-tế, sứ-vụ thừa-tác ta thực hiện và đặc-trưng/đặc-thù trao cho ta cách thực-tiễn,
vẫn là điều cần trải rộng hơn nữa. Quả là, sứ-vụ ta thực hiện công-cuộc cứu-chuộc
mang cả thần-tính lẫn tâm-linh. Và, nói theo ngôn-từ thời buổi này, thì sẽ nói:
“Ơn cứu-chuộc vẫn còn đó, chờ ta ra tay phổ-biến”.
Nền
thần-học có chất-lượng mà các linh-mục cần nghiên-cứu/học hỏi cho nhiều, vẫn nằm
ở sự việc khiến ta nhận ra rằng: Đức Giêsu hoạch-định mọi sự là để cho công-trình
cứu-chuộc của Ngài được tiếp-tục đến hôm nay. Nhu-liệu này, đề-cập chuyện mười
hai sứ-giả được Ngài sai đi vào vùng trời bên ngoài theo từng cặp, hầu tiếp-tục
triển-khai công việc Ngài từng làm. Đức Giêsu vẫn trải rộng công-trình Ngài thực-hiện
-dù Ngài chỉ loanh quanh ở chốn-miền miệt dưới xứ Galilê. Công-việc Ngài làm quả
thật đa-dạng, có khi còn được cả nhóm người xa/lạ phụ-trách nữa. Các vị theo
Ngài thực-hiện công-cuộc cứu-chuộc mang danh-tánh có gốc-nguồn từ tiếng Hy-Lạp,
như: Philípphê, Anrê. Một số vị khác, lại mang tên gọi rất Do-thái như:
Giacôbê, Barthôlômêô, Tađêô, Simôn…
Thật
ra thì, các vị thừa-tác được sai đi không là ai khác ngoài đấng bậc được tuyển chọn.
Ở đây, ta cũng chẳng cần rà-soát xem đội-ngũ môn-đồ thời tiên-khởi có thuộc các
bậc trí-thức hoặc nhóm người mang lập-trường tôn-giáo khác biệt, không? Và, các
vị này có thực-sự theo gót chân mềm của vị Ngôn-sứ rày đây mai đó, cũng không cần.
Các vị thừa-tác ấy là những người từng chấm-dứt quan-hệ ngoài xã-hội và có vị
còn bỏ nhà ra đi, không tiếc than.
Các
vị, vốn dĩ thuộc hàng-ngũ những người được khuyến-cáo hãy đi mà đến với Ngài. Một
số vị trong đó có các đấng bậc lành-thánh, như: thánh Tađêô, mà Giáo-Hội ta chỉ
biết mỗi danh tánh, thôi. Một số vị khác, như: thánh Phêrô và thánh Giacôbê lại
đã trở-thành lãnh-tụ thế-hệ đầu rất phấn-khởi. Cũng tựa như Đức Giêsu, thánh
Phêrô không viết lên điều gì và cũng chẳng để lại chữ nào làm danh-ngôn hay học-thuyết,
hết. Thánh Phêrô, lại đã giao trọng-trách lãnh-đạo cộng-đoàn Giêrusalem cho thánh
Giacôbê để rồi chính thánh-nhân quyết đến tận đất miền Syria hầu khởi-phát công
cuộc thừa-tác cho những ai không là Do-thái, mà người xưa quen gọi là “Dân ngoại”.
Công-cuộc
thừa-sai tuyệt-vời nhất, là công-trình của thánh Phaolô, đấng-bậc lành thánh sống
cùng thời với Đức Giêsu, nhưng ông không thuộc nhóm 12 tông-đồ lành-thánh. Thánh
Phaolô, từng bách-hại Đạo Chúa suốt một thời, để rồi sau đó lại đã trở thành đấng-bậc
trải rộng tinh-thần thừa-sai đầy chất Đạo cho mọi người.
Trong
khi đó, Giu-đa Iscariốt là người thuộc vùng Kerioth, nhưng không biết ông có đến
từ Kerioth, là đất miền thuộc xứ Giuđêa hay không? Hoặc giả, ông có thuộc nhóm/hội
“Sicarri” mà Josephus gọi họ là những
người sùng-đạo không, nữa? Ta chỉ biết có một điều là: Đức Giêsu đã tập-hợp chung
quanh Ngài một số rất đông đồ-đệ không giống nhau về nhiều hình-thức. Các ngài
chỉ có chung một thứ, đó là: niềm tin vào Ngài, Đấng từng gọi các vị đến với
Ngài. Trên thực tế, có đến 3 nhóm/hội xoay vòng gồm các thừa-sai từng gắn chặt hoạt-động
gần gũi Đức Giêsu nhất. Nhóm/hội xoay vòng đầu tiên, gọi là Nhóm 12.
Nhóm
thứ hai, gồm nhiều nữ-lưu từng là môn-đệ của Đức Giêsu, rất cảm-kích. Trong số các
nữ-lưu này, phải kể đến: chị Maria Magđala, Maria chị của Lazarô, và một nữ-lưu
năng-nổ khác từng là hiền-thê của Bộ-trưởng Chuza thuộc vương-triều Hêrôđê. Và,
có Maria là mẹ của thánh Giacôbê, nữa.
Trên
thực tế, một số Tin Mừng cũng ghi danh-tánh các vị này một cách rất tỉ mỉ. Tất
cả, đều theo dấu chân mềm của Đức GIêsu, hầu san-sẻ lời dạy của Ngài và phụ
giúp nhóm/hội mình phục-vụ bằng nhiều thứ, như: vật-dụng và tài-sản. Nhiều vị từng
có mặt bên thập-giá và cả nơi mộ-phần trống-vắng khi Nhóm 12 nòng-cốt trốn biệt
vì hãi sợ và/hoặc vì một thất-bại nào đó rất chua cay. Quả cũng tai tiếng, khi các
vị sống cùng thời với Đức Giêsu, là bậc nữ-lưu như thế lại đã đích-thân theo
chân Ngài, một Bậc thày nam-nhân mà lại không có chồng/con đi theo.
Đức
Giêsu quả đã cố-tình chống lại qui-ước xã-hội đặt ra vào thời Ngài còn sống.
Các thừa-sai nữ-giới chẳng bao giờ được định-danh là ‘tông-đồ’ là có lý-do thật
rất rõ. Xét về từ-vựng, thì danh-xưng ‘tông-đồ’,
bên tiếng Do-thái gọi là “talmid” và
tiếng Aram là “tamida” đều không ở “giống
cái”. Với cộng-đoàn thánh Phaolô, thì nữ-lưu là những vị có cùng một quyền-hạn
như nam-giới. Các chị cũng từng nguyện-cầu, sẻ-san công việc phụng-tự và làm
ngôn-sứ cho chúng-dân cũng đắc-lực không kém.
Nhóm
thứ 3, gồm ‘cảm-tình’viên’ đôi lúc cũng tham-gia vào sinh-hoạt mục-vụ do Đức Giêsu
chủ-trương. Trường-hợp cụ-thể như: Lazarô, Nicôđêmô, Zakêu, Giuse thành
Arimathêa, là các vị thừa-sai tuy không chấm-dứt tương-quan mình có với gia-đình
hoặc xã-hội ngoài đời, hoặc cũng chưa bao giờ rời nhà đi đâu hết.
Riêng
Nhóm 12 càng trở-nên quan-trọng hơn kể từ ngày thánh Phaolô hoạt-động mạnh-mẽ,
mãi về sau. Các ngài thực-hiện vai-trò huyết-mạch về ý-thức-hệ. Các ngài cũng đỡ-vực
Hội-thánh hầu duy-trì vai-trò thừa-kế dành để cho Israel dân được chọn. Có thể
nói, Nhóm 12 chính là Israel theo khuôn-thước rất nhỏ, tức đất nước Do-thái rất
bé nhỏ mà Đức Giêsu từng muốn như thế. Ngài muốn tái-tạo Israel dân riêng gồm
12 chi-tộc. Ngài muốn cải-tổ và tân-tạo niềm tin của chúng dân bắt đầu từ 12
cá-thể được tuyển-chọn bằng ân-huệ lọc-lựa.
Đức
Giêsu đã sai phái Nhóm 12 làm việc này, nhưng Nhóm này lại không đi xa như Ngài
muốn. Các vị được sai đi để tới chốn miền gồm làng mạc nhỏ ở vùng sâu vùng xa, chốn
miền quê-mùa có dân con địa-phương bình-dị, chất-phác vẫn độ-nhật. Các nhóm
xã-hội định-hình như thế, là loại-hình nền-tảng cho đời-sống xã-hội xưa nay vẫn
sinh-hoạt quanh vùng Địa Trung Hải, vào thời cổ.
Điều thú vị, là: Ngài
không sai phái môn-đồ đến các thị thành rộng lớn, nhộn nhịp. Galilê có hai thủ-phủ
chính là Sepphoris cách thôn làng
Nadarét chừng một tiếng đi bộ; và Tibêriát
nằm bên Biển Hồ, gần cạnh Caphanaum. Ai cũng thừa biết, là: Đức Giêsu chưa một
lần đặt chân đến hai nơi này. Đó là chốn miền xa lạ, vốn dĩ không có thiện-cảm
với Ngài và đồ-đệ của Ngài.
Các vùng quê khi xưa
không có đền thờ dựng-xây uy-nghi, hoành-tráng, nhưng dân-chúng nơi đây vẫn tụ-tập
thường-xuyên ở đó, ít là vào ngày Sabát; hoặc tại phố-chợ có mảnh đất rộng-thoáng
hoặc dưới lùm cây râm mát; hoặc bên trong các “nhà-nguyện”, ở đó mọi người tụ-họp
để gặp gỡ cộng-đoàn điều-hợp có tinh thần cao, có giao-ước.
Đức Giêsu thường bảo
họ: hãy xây-dựng cộng-đoàn theo nghĩa đó, và dựng-xây một “Israel” mới theo
cùng một ý-nghĩa, cũng tại nơi này. Ngài không dạy họ dựng-xây cộng-đoàn lớn/nhỏ
mới mẻ, hoặc thể-chế cũng như hiệp-hội nào vừa tân-tạo. Bởi ở nơi đó đã có cộng-đoàn
của Ngài, rồi Ngài cũng không khuyên họ hãy lôi kéo mọi người rời gia-đình,
làng mạc của mình để trở-thành lữ-hành rày đây mai đó, như đồ-đệ theo chân Ngài
khắp đó đây. Có lẽ, chỉ mỗi Nhóm 12 từng làm được điều đó, thôi.
Đức
Giêsu cũng không bảo môn-đồ Ngài dạy dỗ chúng dân theo luật mới; bởi lẽ ‘luật
chung’ như thế, cũng đã nhiều. Ngài không dạy môn-đồ tập-trung vào cá-thể nào, nhưng
hãy đi về phía cộng-đồng làng mạc còn đó, vẫn chờ họ. Ngài cũng không dặn-dò mọi
người hãy biến dân-lành thành thày tu khắc-kỷ hoặc ‘khuyên dạy’ họ thứ gì khác!
Ngài chỉ muốn chúng-dân nghe biết thông điệp Ngài ban phát, muốn cho dân thường
được chữa lành và tha thứ, để họ trở về làng nhà với tâm-trạng mới mà vui sống.
Đám
dân thường bình-dị này, chính là ‘Israel’ đích-thực. Và Đức Giêsu muốn cải-tân một
Israel hoàn-toàn mới, với những người như thế.
Làng
mạc này, vẫn đan xen gần gũi nhau, và hầu hết chúng-dân ở đó và những người đi
ngang qua đó, đều có quan-hệ tương-tác theo cung-cách rất đặc-trưng. Nhưng làng
nào cũng hoạt-động theo cách tư-riêng, đặc-thù ngoại trừ vào lúc họ gặp khủng-hoảng rộng lớn, cấp độ toàn-quốc. Thật
khó cho người lạ được chấp-nhận đến ở trong làng và được coi như ‘dân quê’ của
làng. Muốn được thế, ta phải đến với họ theo cách không doạ-nạt hoặc lũng-đoạn
tinh-thần, mới được. Đức Giêsu sai phái môn-đồ Ngài đi từng cặp, không gây hấn
cũng chẳng làm hại ai. Sai 2 người đi theo cặp, bao giờ cũng đáng tin hơn chỉ một
mình đơn-độc và làm thế cũng dễ có trách-nhiệm hơn.
Môn-đệ
ra đi, không mang theo thứ gì để ăn uống, chí ít là cơm/bánh, không bao-bị cũng
chẳng mang theo túi-xách theo kiểu thu gom, không túi đựng đồng xu tiền cắc, nhất
nhất chỉ một áo choàng bên ngoài thuôn đuột từ trên xuống dưới, dù khi xưa dân chúng
trong làng vẫn có thói quen mặc áo hai mảnh.
Môn-đệ
Thày được phép cầm gậy để giữ an-toàn lành-lặn trên đường và đeo dép nhẹ vì đường
dài cũng rất “mỏi”. Tất cả, đều thực-hiện cuộc lữ-lành gọn nhẹ. Các vị, chỉ đến
với tư-cách của người nghèo-khó, không biết hại ai. “Lệ làng” thời xưa có tính hiếu-khách
sẽ chăm sóc các vị thừa-sai ấy. Các ngài được dạy: chỉ nên ở chung với nhau
trong cùng một căn hộ, không dời chỗ. Chỉ ăn những gì dân làng ban phát, và cư-xử
theo cách tôn-kính, lễ-độ cả với người đón tiếp cũng như người xua đuổi mình.
Các
vị nên trò chuyện, sẻ san cho nhau những câu truyện kể của chính mình hoặc từ người
đón-nhận lời rao giảng. San sẻ, cả việc Chúa gần/cận theo cung-cách mới mẻ đầy
tha thứ/chữa lành như Đức Giêsu từng tỏ-bày cho mình thấy. Và, việc chữa-lành lại
xảy đến cùng lúc và mọi lỗi lầm đều biến mất như đã xảy ra ở Vương quốc của
Chúa với thôn-làng để cải-thiện đời sống ở miền quê.
Những
gì các ngài mong đều đạt được. Đó là sự việc đổi-thay động-thái hầu có được lập-trường/quan-điểm
mới ngõ hầu thấy được sự cải-tân liên-quan đến cung-cách thường-tình khi xem
xét, tức: điều mà các ngài gọi là “cải-biến”, theo nguyên-ngữ có nghĩa chấp-nhận
lẽ-thường cứ quanh quẩn trong đầu các ngài. Người người tạo được lòng thành và ‘tin
tưởng’, bằng loại-hình như thế. Thành thử, kết-cuộc dẫn đến ‘an nhiên tự tại’, gọi
được là “shalom” của mọi người.
Đức
Giêsu và Nhóm 12 cũng giống ngôn-sứ thời cổ, là: Amos. Ông được Thượng-tế lúc
đó sai phái ra ngoài, do bởi ông không biết cư xử trước toà, lại không rành-rẽ
nhiều thứ nên không tốn kém đến đồng xu. Theo ngôn-từ giáo-sĩ thời đó, ông chỉ
là ‘tay mơ’ không chuyên và vẫn là người ở ngoài, thiếu huấn-dục. Ông chỉ biết
mỗi điều là: dựng lên cây “ngô đồng” để chiết dầu từ đó. Ông là ‘ngôn-sứ không mấy
vinh-danh”, nên mới tự-do nói lên điều mình muốn nói mà không cần nhìn qua đầu
ai. Ông có tự-do phẩm-bình phụ-nữ thuộc giai-tầng ở trên mà khi ấy ông gọi họ là
“lũ bò Bashan”! và đám phu-quân của họ
cất lên bài hát ngắn thay thánh-vịnh. Ông có tự-do coi mặt đặt tên những người
ham tìm lạc-thú và những kẻ buôn tiền chỉ biết đặt gánh nặng lên vai người dân
quê chứ chẳng biết trút gánh khỏi nơi vai những người sống trong cộng-đoàn ở
làng xã, xa xôi buồn bã.
Thật
cũng khó định đặt những điều như thế với thánh-hội hôm nay. Các giám-mục chủ-quản
nay được kể là đấng kế vị của Nhóm 12 và ngôn sứ Amos. Nhưng Phúc âm nói ở đây không
khích lệ nhiều để các ngài dám từ-bỏ những chiếc xe bóng loáng mà đi chân đất,
hoặc không còn nuôi sống các nhà giặt ủi hấp-tẩy như xưa nữa. Nhưng, có lẽ vấn
đề đích-thực là đặt ra cho ta, chứ không phải các đấng bậc ở trên cao, chốn ấy.
Vấn-đề
đặt ra, là: làm thế nào để ta bắt chước Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài sống giản-đơn
trong thế-giới đầy những chuyện phức-tạp, khó thực-hiện? Có thể tìm được không bí
kíp sống nào đó giống Đức GIêsu và Nhóm 12 của Ngài từng chấp-nhận khuôn-mẫu sống
của người bình-dị ở thôn-làng miền quê, đây? Các ngôn-sứ khi xưa không tìm cách
áp-đặt cấu-trúc nào khác trên vai những người nghèo hèn ở làng mạc, quê mùa cục
mịch, đấy chứ!
Đây
còn là điều mà ta có thể gọi là nguyên-tắc Nhập-thể, tức: đi trở xuống mà sống với
chúng dân bình-dị, ở huyện. Hội-thánh thời đương-đại, nay rất ít khi lập cuộc hành-trình
đi xuống dưới với dân đen! Có lẽ lời Phúc âm như ở đây có thể cũng sẽ là cú bóng
khởi-đầu đưa các ngài vào hành-trình mới như thế đó. Và có lẽ, ta có thể nói
như thể đưa các ngài về sống với chúng dân bình-dị/giản-đơn dù đôi khi các vị
cũng từng đổ ngược xuống nơi đó; và điều đó chứng tỏ các vị ấy mới đích-thực là
dân nước Israel của Đức Chúa.
Theo
tôi, thì ta đang làm công việc này đây. Có thể, nơi đây cũng là quận lỵ ở miền
Tây hoặc khu phố ở trời Tây xa xôi; và theo mức độ, ta cũng đang làm những việc
như thế, tức: đang sống cuộc sống của tông-đồ Chúa và đang tiếp-tục công-cuộc cứu-chuộc
theo cung-cách nào đó.
Làm
cách nào được như thế?
Có
một người giống giòng thuộc Trung Đông. Anh tên là Abdul Rahman. Anh là người
Afghan, được nuôi-nấng theo cung-cách đạo Hồi. Anh lên đường đi Pakistan để tìm
kế sinh-nhai. Tại đó, cách nay chừng 16 năm, anh trở-thành Kitô-hữu. Mới đây,
anh lên đường về Afghanistan thì anh bị giữ ngay khi đến và bị kết tôi bội-giáo.
Với
người Afghan thì điều này có nghĩa: anh là tội-phạm đáng bị theo cổ. Giả như
anh bị cho là có tội thật, thì án phạt đưa ra sẽ là: tử hình. Lúc ấy, có cả
ngàn người tụ-tập bên ngoài toà đe doạ sẽ giết chết anh, nếu toà xử tha bổng.
Truyền-thông ở phương Tây khi ấy tỏ ra rất phẫn-nộ. Thứ nhất, một bị can ngoan
hiền như anh mà lại bị kết-án tử-hình, sao? Và, khi ấy có người lại cũng thắc mắc:
làm sao một người như anh lại phải ra toà chỉ vì anh có niềm tin riêng tư, khác
đạo Hồi?
Bên
trời Tây, nhất là tại Hoa Kỳ mọi người cố tạo áp-lực lên Afghanistan để nước
này trao trả tự-do cho anh. Chính quyền Afghan lâu nay được quân đội Mỹ đang
đóng quân ở nước này, hỗ trợ rất nhiều thứ. Vì thế nên, toà án đã khôn khéo
phán-quyết rằng: Abdul Rahman không tỉnh-táo về tâm-thần để xuất-hiện trước
toà, và họ quyết-định trả tự-do cho anh. Và thế là, anh nhân cơ-hội này xin tỵ-nạn
với một số nước phương Tây. Và nay, anh sống an-toàn ở Ý.
Thể-kỷ
qua, ta học được cách sống với niềm tin khác biệt. Ta không nghĩ mình cần ra trận
để chống lại người hàng xóm cùng cận lân, chỉ vì họ không cùng một niềm tin
tôn-giáo như mình. Ta còn tìm ra nhiều phương-cách để hợp-tác với mọi người dù họ
có khác biệt về nhiều thứ; chí ít là ta tìm ra nhiều cách cùng phương-tiện để
chiến đấu chống họ.
Có
lúc ta lại nghĩ: tôn-giáo là lực-sống ổn-định trong xã-hội. Sống trong đất nước
có nền văn-hoá đa tôn-giáo, thì thể-chế đạo-giáo sẽ thủ vai-trò gìn giữ sự kết-hợp
với nhau. Không phải ai cũng nghĩ điều đó thật rất đúng, đâu! Chính Karl Marx có
lần nói: “Tôn-giáo là thuốc phiện ru ngủ con người”. Tôn-giáo, đã trở-thành thứ
thuốc an-thần giúp ích xã-hội rất nhiều, tệ lắm cũng tạo cho họ thế đứng chấp-nhận
hiện-trạng của mình. Nhưng đó là sự thể trầm-lặng, im ắng và an-toàn -có lẽ cũng giống như chọn lối sống mê-tín, mà
thôi. Tôn-giáo không là thứ dẫn đưa ta vào cõi chết hoặc đang bị bóp chết. Tôn-giáo
đóng góp hoàn-thành chính cái ngã của riêng mình. Tôn-giáo giúp tôi trở-thành con
người mà tôi sẽ trở-nên như thế. Tôn-giáo, chính là sự an-nhiên tự tại, ở trong
tôi.
Giả
như đó là tôn-giáo, thì Đức Giêsu không ở với tôn-giáo. Tôn-giáo của Đức Giêsu
không an-toàn. Ngài gia-nhập đám người nghèo đem đến cho họ lối sống rất mới. Giới
cầm quyền, cai-quản mọi sự lại không muốn điều đó. Đức Gêsu biết rõ nếu Ngài
không khiến họ ngã gục, thì họ sẽ giết Ngài. Nhưng Ngài không nghĩ đến chuyện
thoái hoá, rút lui. Nên, họ nắm bắt Ngài. Ngài từng bảo những người theo Ngài rằng
đó mới là ý-nghĩa của sự sống. Mất đi sự sống của chính mình do mình có tình
thương-yêu, mới là sống.
Sống
phục-vụ kẻ khác đến mức độ việc ấy dẫn đưa mình vào chỗ chết, cũng không sợ. Dù
đó có là nguy cơ, đau-khổ hoặc bị bỏ rơi, quên-lãng, thì không ai nghĩ mình là
anh-hùng và cũng chẳng ai thán-phục điều mình dám làm, nhưng điều đó vẫn là điều
phải lẽ đáng làm, nếu người theo Chúa quyết thương yêu mọi người. Đó vẫn là
chuyện đáng làm và phải làm.
Hồi-hướng
trở về với Đạo Chúa, không có nghĩa mua chuộc, thuyết-phục bằng cách này hay
cách khác như một ý-nghĩ vô-hại cho người khác. Điều này thật nguy hiểm. Nguy
hiểm như sống ở xứ miền đất nước Afghanistan. Ở nơi đó, nền văn-hoá bộ-tộc thời
cổ vẫn được duy-trì. Trong khi Đạo Chúa nói: mọi chia cách về văn-hoá, sẽ được
vượt thoát trong Đức Kitô bất kể ta là “Hy-Lạp hoặc Do-thái”. Ở nơi mà phụ-nữ bị
trừ-khử và được coi như dân đen hạng thứ không có chân trong nền văn-hoá, thì Đạo
Chúa lại bảo: Nơi Đức Kitô, không phân-biệt nam/nữ. Kitô-hữu không nên sống nơi
nào mà phụ-nữ không được coi trọng và đồng quyền như nam-giới.
Với
người phương Tây, điều này cũng nguy hiểm không kém. Đạo Chúa có phải là mối
đe-doạ cho cuộc sống ở phương Tây? Có thật đúng thế không?
Triết-gia
Kierkegaard có lần nói: người phương Tây từng tìm cách sống như thế, tức mua
chuộc, thuần-hoá Đạo Chúa; nhưng họ thấy nó không được, nên đã thôi. Cũng có lần,
nhiều người từng thử thuần-hoá Đạo Chúa bằng việc dùng thuế má để tặng thêm cho
người giàu và tài-trợ các công-ty dầu-lửa đồng thời cắt đứt công ăn việc làm của
người nghèo. Làm thế, chỉ có lợi cho doanh-thương, chứ không giúp con người phục-vụ
lẫn nhau và tạo cuộc sống tốt đẹp cho nhau. Làm thế, như thể đem nhiều lợi-nhuận
đến cho các cầu thủ bóng bầu dục và quần-vợt vốn đã giàu hơn là ban phát công
việc cho công-nhân bên ngoài xã-hội. Cách sống như vậylại giáo-dục trẻ em để chúng lớn lên và sau này trở-thành
nhà tư-bản. Đó không là văn-hoá Đạo Chúa. Khi thực-hiện công-cuộc thừa-tác ở bất
cứ nơi nào ta đặt chân đến, ta sẽ không là Đạo Chúa bị thuần-hoá.
Giả
như, ta chủ-trương cho Kitô-hữu trở nên đông-đảo bên trời Tây này, thì thử hỏi
khi ấy ai sẽ là người sống Đạo đích-thực như Đức Chúa dạy bảo? Phải chăng khi ấy
sẽ có đe-doạ trầm-trọng cho nền văn-hoá khác với Đạo Chúa chăng? Và, Đạo của Chúa,
khi ấy, sẽ là tôn-giáo sống bất cần luật-lệ chứ? Cũng có thể, đó sẽ là mối đe-doạ
cho nền kinh-tế, chính-trị, văn-hoá, cũng chưa biết. Có thể, nó sẽ biến-cải mọi
sự, cũng không chừng! Có thể, nó sẽ đổi-thay hệ-thống giá-trị xưa nay ta từng chủ-trương,
cũng nên. Và đây sẽ là điều gây kinh-hoàng, sửng-sốt hoặc thứ gì khác nếu
hành-xử giống như thế…
Câu
chuyện của Abdul Rahman cho ta thấy bản-chất rất đáng gờm của Tin Mừng đầy
ý-nghĩa. Đứng truớc toà, Abdul Rahman có nói: anh muốn chết cho niềm tin của
anh mà thôi; và những người có mặt hôm ấy đều đã sẵn sàng giết anh cũng vì thế…
Đây không là thảm-kịch cốt dung-dưỡng hoặc tạo tự-do tôn-giáo; mà là sự đối đầu
giữa nền văn-hoá đang tiến-triển với bậc thày “đáng gờm” mà nhiều người chưa từng
nghe biết, Ngài chính là Đức Giêsu thành Nazarét Đấng kình-chống kẻ chuyên quyền
làm bậy chứ không phải những kẻ khó nghèo, thua thiệt.
Tuy
nhiên, cũng chớ nên lo ngại nhiều! Toà xử từng phán quyết rằng: vụ xử Abdul
Rahman là vụ việc mang tính tâm-thần, mà thôi. Và khi đó, họ cũng có đề-cập đến
Đức Đức Giêsu, nhưng lại không nói đến chúng ta, là các “Kitô khác” vẫn từng theo
Chúa. Ta cũng đã chuyển-hoá cuộc sống rất Kitô, để trở-thành thứ gì đó đầy ý-nghĩa
và lý lẽ có nền văn-minh/văn-hoá đang diễn-tiến rất tôn-trọng.
Hãy
tự hỏi, việc gì xảy đến nếu ta trở-thành lớp người mang trong mình nhiều tính tâm-thần
và sống thực điều mình xác-tín với tư-cách Kitô-hữu, đây? Cũng có thể, những
người như thế sẽ không chém giết ai trong ta. Nhưng, họ chỉ phớt lờ chẳng để
tâm gì đến ta, hoặc nhiều lắm cũng chỉ đưa ta vào viện tâm-thần nào đó, thôi.
Tác
giả Luke Fay, trong “A Long Harvest”
có trích bài tự-sự của Alec Guiness với chương đoạn có tên Blessing in
Disguise khi ông thủ vai Linh mục Brown trong phim hình-sự của Chesterton.
Phim này, được dàn dựng ở Burgundy. Guiness lại đã viết:
“Cuộc đấu súng ban đêm diễn ra tại ngôi làng nhỏ toạ-lạc trên đồi cao,
cách khu Macon có vài phút đi bộ. Dân làng và trẻ em tụ-tập quanh đó để san-sẻ
niềm vui kích ngất. Chuyện xảy ra ở trong phòng giống nơi này, khoảng-cách chừng
3 cây số. Khi hoàng hôn sụp xuống, tôi mặc nguyên chiếc áo dòng mầu đen, cứ thế
leo bước trên con đường lộng gió đầy bụi cố tới được ngôi làng nhỏ. Có lẽ họ cần
tôi ở lại ít là bốn tiếng, sau đó tôi trở
xuống trạm xe lửa cho kịp giờ, thì nghe có tiếng gọi tôi bằng tiếng Pháp “Mon
Père!” Quay lại, mới thấy đó là cậu bé chừng 7, 8 tuổi đứng đó nắm tay tôi, rồi
bi bô nói đôi điều gì có vẻ thích thú lắm. Cậu rất vui, không để tôi đi khỏi.
Tôi nói không nên lời vì tiếng Pháp tôi hoàn toàn dốt đặc. Dù tôi là người xa lạ,
nhưng cậu bé thấy tôi ăn mặc theo kiểu linh-mục nên rất tin tưởng. Cuối cùng, cậu
lại nói thêm một câu tiếng Pháp: “Bonsoir, mon père” sau đó cậu đi dần vào chốn
lặng thinh của chiều tà.” ( A Long
Harvest tr. 169)
Mỗi
khi có người đáng tin tưởng nghe ta nói điều gì, ta vẫn nên rao giảng Tình
thương-yêu không bờ bến của Chúa cho mọi người. Vừa qua, cha giáo đây lại cũng
nói về cuốn sách mang tựa đề: “Đặt tên
cho ân-huệ” trong đó ông giúp một số người chúng ta vào buổi cuối tuần để
chuẩn bị dọn bài suy-niệm mỗi Chúa Nhật. Rao giảng Ơn Cứu-Chuộc hôm nay, ta cần
cảnh-giác về tính mỏng dòn trong hy vọng…
Nói
thế, có nghĩa: ta đang ở vào giai-đoạn mới trong lịch-sử Đạo Chúa rất cần nói
rõ cho mọi người hiểu: thế nào là Ơn Cứu-Chuộc. Khi theo dõi sự việc diễn ra ở
Công Đồng Vatican 2 và các cuộc cải-tân vào những ngày sau đó, ta cũng đã “hiện-đại-hoá”
cuộc sống Công-giáo của ta. Thế-giới nay đổi-thay và trở thành thời hậu-cận-đại.
Đây là thế-giới đã để mất các giá-trị đạo-đức và đã thua cuộc không còn hy-vọng
tích-cực nào khác nữa.
Nay,
Hội-thánh yêu cầu ta tái-khám-phá xem ta có trung-thực và đáng tin cậy nữa không,
và ta có tỏ cho mọi người biết mình là ai và cuộc sống trong Đức Kitô và với Đức
Kitô có là cuộc sống rất đáng sống, không? Và, nếu ta làm được thế, thì ta đang
tiếp-tục công cuộc Cứu-chuộc cho ai? Cho mọi người, trong đó có Công-giáo,
Kitô-hữu dù rất mộ-đạo hay không ngoan đạo vẫn tham-gia dự-phần vào với dân con
trưởng-thành trong Đạo.
Nhưng
đặc biệt hơn, nơi giáo-dân ở xứ họ, vẫn luôn có hai loại người: một là những
người vẫn buồn rầu với quá khứ và hiện-tại của họ, chí ít là do Giáo-hội tạo nên;
và những người kia đang bị thế-giới hiện-thời làm tan vỡ mộng-đẹp, để rồi vẫn
thấy thiếu nhiều điều để còn tin. (Điều-hợp-viên tĩnh-huấn vào tháng 2/2005 cho
tỉnh Dòng Úc Châu và New Zealand, Thái Lan, Singapore..)
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment