Tôi ngần ngại mãi tìm đề tài để viết cho số báo Ephata số ra Chúa Nhật
29.4.2018, đắn đo mãi vì số báo ra cận ngày lịch sử của đất nước, ngày 30 tháng
4, ngày mà trái tim của tôi lại chợt đau nhói mỗi khi nhắc đến nó.
Vào những ngày cận kề này,
bao nhiêu cảm xúc về nỗi đau, về những luyến tiếc lại kéo về. Chiều nay vào
trang FB của nhóm bạn trường cũ, có một ai đó nhắc đến người giáo sư Anh văn
duyên dáng của trường năm nào, cô đẹp và nổi bật trong tà áo dài đến lớp, mái
tóc đen óng ả của cô, và cái răng khểnh là những đặc điểm chắc chẳng ai quên
khi nhắc đến cô. Bạn ấy viết về cô với niềm luyến nhớ, vì sau năm 75 cô đã ở lại
biển vĩnh viễn không đến được bờ tự do như cô mong muốn. Những dòng chữ cô viết
đề tặng tôi trong một cuốn truyện Anh ngữ Loranard Doon lại hiện về.
Không chỉ mình cô, người bạn thân nhất trong ba đứa chơi với nhau từ
thời trẻ thơ của chúng tôi cũng chẳng trở về sau chuyến đi biển năm ấy, đi tìm
tự do, bạn bỏ lại ba đứa con gái lớn lên không biết gì nhiều về cha mình, cháu
lớn nhất bây giờ là giảng viên một trường đại học, những lần đi chơi với nhau
cháu nói “xin nói về ba của con cho con nghe”. Tôi cố nén cảm xúc khi những đứa
cháu con của chúng nhảy vào lòng tôi gọi “ông ngoại”!
Từ ngày ấy bỗng dưng tôi như trẻ con hờn giận biển, cơn dỗi nỗi hờn
43 năm rồi, không ai dỗ dành, bây giờ tóc bạc sương, những lần ra biển chỉ biết
ngồi nhìn biển ngậm ngùi lặng lẽ. Biển nhận chìm, biển chia cắt bao nhiêu tình
cảm đời tôi! Những người thân quen cũ giờ trở nên xa lạ bên kia bờ đại dương,
“chẳng nợ gì nhau”!
Ngần ngại rồi cũng phải viết vì thời gian không cho suy nghĩ nữa, phải
viết về những nỗi đau của mình, của nhiều người, và bây giờ là nỗi đau của cả một
dân tộc khi những hình ảnh bước qua ranh biên giới giữa hai miền Nam Bắc Triều
Tiên lồ lộ trên các màn hình mạng xã hội. Không biết nền hòa bình mà họ đang
xây dựng có hiện thực và bền vững không, nhưng chúng ta bất hạnh, vì chưa bao
giờ và chẳng bao giờ chúng ta có được những hình ảnh hạnh phúc đó. Bao nhiêu
xương máu đồng bào ta đã đổ xuống, bao nhiêu nỗi oan khiên theo nhau trong những
ngày ngục tù, những tiếng khóc xé lòng khi tiễn đưa những người bạn nằm trong cỗ
áo quan phủ lá quốc kỳ, những ngôi nhà buồn tênh trống trải khi những đứa con
trai bỏ làng xóm “sinh Bắc tử Nam” chẳng biết vùi xác nơi nào.
43 năm sau, ta nhìn một đất nước tan hoang, biển mất, rừng chẳng
còn, anh em cha con xếp hàng tranh nhau đi làm nô lệ xứ người! Người ở lại gánh
một núi nợ công trên trời rơi xuống! Người nghèo nối đuôi nhau đòi công lý khắp
nơi, những phòng, những khoa, những bệnh viện ung bướu đầy ắp hơi người không còn
chỗ chen chân.
Cuối cùng rồi cũng phải viết về những nỗi đau ấy, vì mấy bữa nay có
thông tin, ngôi nhà cổ có tuổi trên 150 năm nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám
Mục Sàigòn chuẩn bị được đưa lên “thớt” để chặt, để đập phá. (Ảnh Nhà Nguyện cổ trong Tòa Tổng Giám Mục
Sàigòn sắp bị phá bỏ).
Năm 1987 tôi chứng kiến ngôi nhà song sinh với ngôi nhà này, có tên
là “Lăng Cha Cả” bị đập phá tan hoang! Nỗi buồn về một di tích, một công trình
mang đầy tính văn hóa Việt bị phế bỏ, nỗi buồn với tôi còn thấm hơn khi đây là
một ngôi nhà gắn liền với cả tuổi lớn lên và thời học trò của tôi. Sáu năm thời
trung học, mỗi ngày tôi đi qua ngôi nhà này nhiều lần, bao nhiêu những suy
nghĩ, tưởng tượng phong phú của tôi năm xưa về ngôi nhà và những gi bên trong
ngôi nhà đó, đối với tôi và có lẽ nhiều bạn học trò khác, Lăng Cha Cả là cột mốc
tạm chấm dứt mộng mơ của bài “Ngày Xưa Hoàng Thị” vì đã hết con đường “theo
nhau đường dài, trưa trưa chiều chiều” để bước vào đường Trương Minh Ký tấp nập
xe cộ qua lại.
Hẳn không phải mình tôi nhưng ít là những ai qua lại, những cư dân của
nhiều năm, nhiều thế hệ sống quanh đó, cư dân của Sàigòn và cả những người ngoại
quốc đến sống và làm việc ở các đơn vị vùng Phi trường Tân Sơn Nhất, cổng Phi
Long. Cái đó người ta gọi là “hồn” của công trình. (Ảnh Lăng Cha Cả ngày xưa trước khi bị phá hủy sau năm 1975).
Đối với những người có trách nhiệm với đất nước, hình như họ chẳng bận
tâm đến cái “hồn”, cái họ bận tâm là cái khác. Một xưởng Ba Soong của thời oanh
liệt Nguyễn Ánh đóng tàu dong duổi đại dương đối với họ là cỏ rác; những ngôi
biệt thự ghi rõ mồn một số nhà của thời mở mang bờ cõi đối với họ là “chuyện nhỏ”;
cả quần thể Tu Viện hiện diện trước cả khi cha mẹ họ sinh ra họ cũng sẵn sàng
tước đoạt; những đầu tàu xe lửa cả thế giới thèm khát họ bán với giá sắt vụn,
ngoại quốc mua về làm du lịch giá đẩy lên hàng triệu đô; cả một hệ thống đường
sắt răng cưa ở Đà Lạt không nơi nào trên thế giới còn sót lại, vậy mà đã được họ
cho nấu chảy!
Trong Tông Huấn Niềm Vui của Tin Mừng,
Hội Thánh dạy chúng ta rằng (số 13): … Ký ức là một chiều kích của Đức Tin mà chúng ta có thể gọi
là “đệ nhị luật”, tương tự như ký ức của dân Israel về chính mình.
Chúa Giêsu để lại cho chúng ta Thánh Thể như là sự tưởng nhớ hằng ngày của Hội
Thánh về biến cố Vượt Qua của Ngài, và như là sự chia sẻ sâu xa hơn biến cố này
(Lc 22, 19)…”
Xúc phạm ký ức, hủy bỏ tính kế thừa,
dân tộc, đất nước chúng ta đi về đâu, hỏi sao không buồn, chẳng phải để nhắc lại
những kỷ niệm buồn của một thời đã qua, chẳng phải là những lời phàn nàn lẩm cẩm
của những người gần miệng lỗ, với hành trình của Hội Thánh, đó là những tiếng
kêu nhằm thức tỉnh lương tâm của những ai đang can tâm đập phá hủy bỏ qua khứ,
muốn xây dựng những cái tháp Babel mới cho họ, ghi danh họ trên bảng vàng! Cái
họ tìm không phải là các linh hồn nhưng là công danh sự nghiệp của họ, ghi danh
họ!
Lm.
VĨNH SANG, DCCT, 29.4.2018
No comments:
Post a Comment