Ngày 13 tháng
3 năm 1991, gia đình chúng tôi qua định cư tại Sacramento, thủ phủ Cali, Hoa Kỳ
dưới diện HO sau 8 năm tù gọi là cải tạo dưới chế độ CS.
Năm 1994,
chúng tôi cùng Nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương, bút hiệu Thái Luân, và Nhà thơ
Nguyễn Lý Tưởng thành lập Hội Thơ Tài Tử VNHN, và tôi được đề nghị làm Trưởng
Ban Điều Hành cho đến nay đã được 24 năm.
Sau khi thành lập hội thơ, chúng tôi nghĩ đến sự phát triển hội bằng
cách in một tập thơ mang tên CỤM HOA TÌNH YÊU để giới thiệu cùng độc giả và tổ
chức các buổi ra mắt sách tại Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới. Dù sao vấn
đề tài chánh vẫn là một yếu tố quan trọng đã thúc đẩy tôi phải tìm cách làm sao
có ngân quỹ để trang trải cho các chuyến đi xa. Thế là trong một buổi "trà
dư tửu hậu", có người bạn vui góp ý là tôi muốn đi làm nghề nhặt rác trong
khu cư xá không, lương mỗi tháng 700 đô tiền mặt. Cơ hội đến là tôi đồng ý
ngay. Thế là từ một sĩ quan cấp tá tôi trở thành một người lao công giống như
anh chàng trong bản nhạc "Người Phu Quét Đường". Và rồi người nhặt
rác Việt Nam đã gặp cậu bé Mỹ trong bài thơ "Cậu Bé và Người Nhặt
Rác" mà tôi hân hạnh được giới thiệu cùng quý độc giả hôm nay.
Sau khi lập
hồ sơ nhận việc, tôi bắt đầu hành nghề. Sáng sớm tinh sương lúc 6 giờ tôi đã
phải bắt đầu công việc. Một tay xách cái
thùng đựng rác, một tay cầm cái kẹp nhặt rác. Khu vực đầu tiên phải dọn dẹp là
vườn trẻ với bãi cỏ xanh và các phương tiện vui chơi cho trẻ em như xích đu, trèo
cao tuột dốc v.v... Sau đó phải đi loanh
quanh trên các con đường trong khu cư xá, sân trước nhà, bải cỏ để nhặt rác
rưới bỏ vào xô rồi đem đổ vào các thùng Connex đặt gần đó.
Khu cư xá khá
rộng phải mất nhiều giờ mới làm xong công việc. Nhất là về mùa
Đông lá vàng rơi từ các cây cao tỏa bóng mát, nên cần thời gian cào lại từng đống rồi bỏ vào bao
nylon lớn. Về mùa Hè nóng bức, lao động một hồi là mồ hôi nhễ nhại, tôi ngồi
dưới bóng mát để nghỉ xã hơi.
Công việc
nhặt rác này không có gì vất vả nặng nhọc, nhưng so sánh với các nghề khác như
chạy bàn, bán báo, hoặc dọn dẹp làm sạch sẽ văn phòng, nhà vệ sinh trong bệnh
viện hay các trường đại học, hoặc thợ điện, thợ hàn, thợ tiện, thì nó là cái
nghề thấp nhất trong xã hội mà đồng lương chỉ có 700 đô một tháng.
Hoa Kỳ là một
đất nước tự do, không phân biệt màu da, giàu nghèo, không phân biệt lao động
trí óc và lao động chân tay, nghề nào cũng cao quý. Sĩ quan QLVNCH từ cấp úy
đến cấp tá, cấp tướng khi di tản đến Hoa Kỳ đều có thể làm bất cứ nghề gì trong
giai đoạn đầu mới đặt chân trên xứ lạ quê người để kiếm sống. Dần dà họ đã trở
thành những thương gia giàu có, những triệu phú, tỷ phú, khoa học gia, bác sĩ,
kỷ sư, tiến sĩ...
Cái nghề nhặt
rác không mang lại chức tước, danh vọng hay tiền tài, nhưng nó đã đem lại cho
chúng tôi một kỷ niệm đẹp nhất trong đời, đó là câu chuyện mà tôi xin kể hầu
quí vị sau đây.
Một buổi trưa
mùa Hè, trời nóng như thiêu đốt, tôi dừng chân nghĩ mát dưới bóng cây trước sân
nhà của một căn chung cư. Bất ngờ một em bé khoảng 4 tuổi, tên Mc Kee từ hiên nhà chạy ra, ôm lấy chân tôi và nói:
"I love you". Rồi nhanh nhẹn bé lấy cái xô và cây gắp đi loanh quanh
khu nhà gần đó nhặt rác bỏ vào xô. Cảm giác của tôi lúc đó thật bàng hoàng xúc
động. Cậu bé mới tí tuổi mà đã biểu lộ được một cử chỉ đẹp, một tấm lòng yêu
tha nhân quá tuyệt vời, như một thiên thần nhỏ bé mang lại tình yêu cho người
trần thế.
Cảm kích
trước hành động dễ thương của bé Mc Kee, tôi đã viết nên bài thơ "Cậu Bé
và Người Nhặt Rác", và dịch ra tiếng Anh "The Little Boy and The
Groundsman" đề tặng cháu bé và ba me của cháu. Tôi cũng đã tặng bài thơ
này cho bà quản lý khu chung cư tôi làm việc. Bài thơ như sau.
Cậu Bé và
Người Nhặt Rác
Thương về bé
Mc Kee
Cơn nắng hạ
chói chang/ Như thiêu như đốt/ Người nhặt rác âm thầm/ Từng bước từng bước một/
Kéo lê đôi giày mòn mỏi/ Như quá khứ gặm nhấm đời anh/ Trong chiến tranh, lao
tù, bất hạnh.
Cơn giá buốt
mùa Đông/ Cắt da xé thịt/ Người nhặt rác âm thầm/ Từng cử động chắc nịch/ Vung
đôi bàn tay chai cứng/ Anh nhặt không ngừng.
Từ sáng sớm
tinh sương/ Thiên hạ đang yên giấc/ Người nhặt rác âm thầm/ Từng bước từng bước
một/ Lướt nhẹ qua những con đường/ Đầy xác lá vàng rơi rụng/ Cùng mãnh hồn anh
vỡ vụn tan thương.
Rồi một ngày
như mọi ngày/ Dưới nắng trưa hè gay gắt/ Người nhặt rác lau mồ hôi trán/ Đứng
lặng nhìn trời suy tư miên man/ Bất ngờ một cậu bé/ Từ hiên nhà chạy ra/ Ôm lấy
chân người nhặt rác/ Ngước nhìn lên đôi mắt sáng trong/ Hồn nhiên em nói: Cháu
yêu ông – I love you/ Rồi đôi chân nhỏ bé/ Thoăn thoắt trên thảm cỏ/ Bé nhặt rác bỏ vào xô/
Người nhặt rác bàng hoàng xúc động/ Nghe như từ trời tiếng hát yêu thương/ Xóa
tan bao mệt mỏi chán chường.
Cao đẹp thay
tình yêu của bé/ Tình yêu không đổi trao/ Tình yêu không vụ lợi/ Tình yêu không
lý luận/ Tình yêu bình an cho người/ Ôi! Tình yêu tuyệt vời!
Viết đến đây
tôi nhớ lại một bài báo mà tôi đã cất giữ từ mười mấy năm nay trong tủ sách
dưới nhan đề "Đời Nhặt Rác" trong mục Thư Sàigòn, xin ghi lại như
sau.
Bạn,
Chuyện kể với
bạn trong lá thư này là chuyện về những người nhặt rác ở thành phố Huế. Theo
báo Giáo Dục Thời Đại, hễ đi đến bất kỳ bãi rác nào lúc chập choạng tối trong
thành phố, phóng viên báo này đều nhận thấy có rất nhiều người đang dùng que
đào bới rồi nhặt rác. Những người nhặt rác là những người nghèo khổ. Báo Giáo
Dục Thời Đại viết về tình cảnh của những người kiếm sống bằng công việc nhặt
rác ở Huế qua đoạn ký sự sau đây.
Bãi rác nằm ở
đường Tùng Thiên Vương, thành phố Huế, chỉ là một bãi nhỏ nhưng cũng có từ bốn
đến năm người tham gia nhặt rác ở đây mỗi tối. Dưới ánh đèn vàng hiu hắt và
những hạt mưa bụi bay bay, những người này cần mẫn dùng que gạt đi gạt lại đống
rác rưởi hôi thối mong tìm được cho mình một thứ rác có thể sữ dụng được để đem
bán lại. Dụng cụ lao động của họ khá đơn sơ và không an toàn chút nào. Mỗi
người có một chiếc đèn pha trên đầu, một bao tải móc sau lưng cùng với một cái
que dùng bới rác... Chẳng có một phương tiện nào bảo hiểm trên con người họ, dù
chỉ là chiếc bao tay hay đôi ủng cao. "Kiếm cả buổi tối chưa chắc đủ ăn
thì làm sao tụi tôi có tiền mua đồ bảo hiểm hở anh?" Câu trả lời của người
có vẻ lớn tuổi nhất trong số những người ở đó khiến phóng viên lúng túng trong
chốc lát. Rồi như không chú ý đến sự có mặt của tôi, họ vẫn tiếp tục làm việc.
"Nghề nhặt rác này vất vả và tủi hổ lắm anh ạ. Cứ nghĩ đến việc gặp
người quen là mình đã lo ngại rồi, còn nếu lỡ gặp thì chỉ có việc độn thổ đi
cho khuất mắt". Anh lớn tuổi nhất trong đám tâm sự nhưng vẫn không chịu
cho tôi biết tên. Khi anh quay đi, Tèo – cậu bé nhỏ nhất trong số người nhặt
rác thì thầm vào tai phóng viên: "Chú ấy có vợ con rồi nên không chịu nói
thật tên và địa chỉ mô mà anh hỏi".
Tại một bải
rác khác ở cuối đường Chế Lan Viên, trong khi các công nhân của Công ty Vệ sinh
Môi trường đang tiến hành công việc của mình thì vẫn có mặt ba người nhặt rác.
"Trung bình một đêm nhặt rác cũng kiếm được từ bảy đến mười ngàn đồng. Nếu gặp đêm vớ bở thì
cao hơn. Nhưng cũng có nhiều đêm cúi đến cong lưng cũng chỉ kiếm được một đĩa
cơm bụi". Hoàng, một cậu bé thường xuyên nhặt rác ở bãi rác Phú Thượng
(Phú Vang) cho phóng viên biết. Hai nỗi lo lớn nhất của người nhặt rác là tai
nạn và không nhặt được rác. Tai nạn là chuyện thường xuyên xảy ra. Trong bất cứ
bãi rác nào cũng ẩn chứa vô vàn nguy hiểm.
Phóng viên
báo Giáo Dục Thời Đại viết tiếp: "Hình ảnh mà phóng viên nhìn thấy được
vào buổi sáng ở đường Nguyễn Tri Phương làm tôi nhớ mãi. Có ba bé gái với ba
bao tải đựng rác sau lưng đứng lặng nhìn các bạn đồng tuổi mình đang nô đùa
trong sân trường với ánh mắt buồn bã. Không biết các người có trách nhiệm sẽ
nghĩ gì khi nhìn thấy cảnh tượng này, và cũng không biết tương lai của những em
bé nhặt rác hôm ấy sẽ đi về đâu?"
Chúng tôi
viết lại câu chuyện nhặt rác ở Việt Nam kể trên để chúng ta có một khái niệm về
tình hình kinh tế và đời sống của người dân hai nước. Đành rằng không thể so
sánh một nước lớn với một nước nhỏ, nhưng cái nghề nhặt rác là cái nghề tận
cùng của xã hội dù văn minh hay nghèo khó, mà nó cũng không mang lại được cái
hạnh phúc nhỏ bé nhất cho con người ở nước mình.
Từ một sĩ quan cấp tá QLVNCH, tôi đã trở thành người nhặt rác ở Mỹ.
Nhưng nhờ một nghề nghiệp khiêm nhượng trong một xã hội văn minh giàu có mà tôi
đã học được một bài học quý giá trong đời, đó là Tình yêu mang đến từ một cậu
bé người Mỹ làm xúc động tâm hồn khiến tôi viết nên bài thơ "Cậu Bé và
Người Nhặt Rác" thương tặng bé Mc Kee đáng yêu.
Xin cám ơn bé
Mc Kee. Xin cám ơn Tình yêu bình an cho Người.
LÊ
QUANG SINH, Garland, 1.2018
No comments:
Post a Comment