Friday, 20 April 2018

Lm Joe Mai Văn Thịnh CSsR: AI LÀ NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT?



Anh chị em thân mến,

Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ tư mùa Phục Sinh hôm nay, Đức Giê-su đã xác định mình là người chăn chiên tốt lành, thiện hảo và nhân hậu. Người đã làm mọi sự, cho dù cần hy sinh mạng sống để bảo vệ và nuôi sống ràn chiên mà Thiên Chúa đã trao ban thì Người cũng vui lòng thực hiện. 

Đối với người Việt Nam, chiên vẫn là những con vật rất xa lạ trong cuộc sống với chúng ta. Ít ai trong chúng ta có kinh nghiệm về việc chăm sóc và nuôi dưỡng chúng. Tuy nhiên, chúng ta chịu ảnh hưởng bởi các hình ảnh mô tả cảnh Đức Giê-su bồng bế và vác chiên trên vai, và từ đó chúng ta nghĩ rằng chiên là những con vật thật hiền lành và dễ thương. Nhưng cũng có một số người cho rằng chiên là loài vật “hiền quá hoá ngố như câu thành ngữ as silly as a sheep.”

Vì thế, để hiểu rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này, chúng ta cùng nhau đặt mình trong bối cảnh và nền văn hoá mà trình thuật này được viết ra, đó là cùng nhau trở lại với nền văn hóa của dân Israel. 

Hình ảnh ‘người chăn chiên’ đã được các ngôn sứ của thời Cựu ước dùng để ám chỉ đến các vị lãnh đạo về phần đời cũng như trong đạo của người Do Thái. Khái niệm này đã đuợc hình thành trong hoàn cảnh của dân Do Thái khi bị lưu đầy bên Babylon. Trong bối cảnh như thế, khi mà dân Do thái đã mất tất cả như: mất đi nền văn hóa truyền thống, xa quê hương và không còn đền thờ để thờ phượng,... thì ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã khơi lên niềm hy vọng cho dân bằng cách trình bầy Thiên Chúa là Người chăn chiên tốt lành, là Mục tử nhân hậu, là Đấng dẫn đường để dẫn dắt ràn chiên, tìm chỗ cho chiên ăn, dẫn lại về ràn các con chiên lạc đường và cứu chiên thoát khỏi các cạm bẫy, các hiểm nguy của các thợ săn và thú dữ. (Ed 34:11–16). Từ đó mỗi khi nói đến người chăn chiên thì dân Do Thái hình dung ra hình ảnh của một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và quan tâm đến họ. 

Căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ: những người chăn chiên thường xuyên ở với ràn chiên cho nên họ không thể thường xuyên tham dự các nghi lễ theo luật của người Do thái. Nhiệm vụ của họ vô cùng vất vả. Vào mùa nắng, họ phải dẫn chiên đi đến những đồng cỏ tốt; và khi mùa đông đến ông phải tìm chỗ cho chiên trú ẩn; ông còn phải học để săn sóc cho các con chiên bị thương tích. Vì chức năng của công việc, nên người chăn chiên thường có nhiều đụng chạm với chủ của các đồng cỏ; và đôi khi còn bị lên án như là kẻ trộm hoa mầu.

Tuy nhiên, cũng vì nhiệm vụ nên mối tương quan giữa người chăn chiên và ràn chiên rất riêng tư và cá biệt. Hàng ngày họ chia sẻ sinh hoạt và cuộc sống với nhau tại các nơi hoang vắng, ít người qua lại. Họ chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh, và chính nhờ vào yếu tố riêng biệt và lối sống chung này nên những người chăn chiên thường có một mối giây tương quan mật thiết với từng con chiên trong ràn. Do đó, ngày qua ngày, họ học để biết rõ từng con chiên, và các con chiên trong cùng một ràn cũng nhận biết tiếng nói của người chăn, và dễ dàng phân biệt tiếng của họ với tiếng của người khác.

Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Trở lại với trình thuật của Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi rằng khía cạnh nào trong mối quan hệ giữa người chăn chiên và ràn chiên sẽ đem lại cho chúng ta những bài học hữu ích trong cuộc sống? 

Trước hết, chúng ta cần đồng ý với nhau rằng qua cuộc sống và sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng thực điều Người đã phán dậy hôm nay, chính Đức Giê-su là người chăn chiên tốt lành và thiện hảo. Người biết rõ nhu cầu, sở thích, ưu điểm, khuyết điểm và các thương tích của từng con chiên. Người đã hy sinh chính mạng sống mình để bảo vệ và ban cho các con chiên trong ràn sự sống. Đối với Đức Giê-su thì tất cả mọi người không cần phân biệt chủng tộc hay mầu da, tự do hay nô lệ, tín ngưỡng hay lối sống, nam hay nữ, giầu sang hay nghèo hèn… Tất cả đều thuộc về ràn chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người để chăm nom. Trong Chúa không có sự tách biệt. Tất cả đều bình đẳng, không ai hơn ai kém. Mọi người đều có giá trị thật quan trọng trong con tim của Người chăn chiên tốt lành là Đức Giê-su Kitô.

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” là một xác định thật quan trọng nói lên mối tương quan giữa Đức Giê-su và các con chiên. Người không lý giải hay biện minh. Người đã phán như một Đấng có uy quyền. Tôi là! Tôi là! Trong mối dây tương quan giữa Chúa Cha và mình, Đức Giê-su đã xác định một cách thật mạnh mẽ: Tôi là Người Chăn Chiên Tốt, Tôi biết chiên tôi, chúng biết và nghe tiếng Người. Đây không là vấn đề để tranh luận hay bàn cãi. Ai tiếp nhận thì điều mà Chúa phán hôm nay nghiễm nhiên trở thành sự thật và của mình.

Nghe tiếng Chúa, hôm nay, có nghĩa là nhận ra tiếng Chúa trong mối dây thân mật dưạ trên tương quan của Tình Yêu, của gắn bó và hiệp thông. Thậm chí đến mức độ, trong mối tương quan này họ không cần nói, cũng chẳng cần nghe… mọi âm thanh dường như cần dừng lại để cho cảm xúc của Tình Yêu và Lòng Mến dâng trào và ngâp tràn trong giây phút hai người biết nhau, như “Tôi biết chúng và chúng biết tôi.” 

Dựa vào những suy tư của dân Do thái, hoàn cảnh thực tế của nghề chăn chiên và nhất là các kinh nghiệm về sự sống mà Chúa Giêsu đã trao ban cho các tín hữu thời giáo hội sơ khai, tác giả của Tin mừng thứ tư đã trình bầy Chúa Giêsu không chỉ là người chăn chiên; nhưng là Đấng chăn chiên tốt lành, đã hy sinh mạng sống để đem tất cả con chiên, dù lạc ràn hay không, về lại ràn và ban cho chúng sự sống đời đời và không một ai có quyền tước mất sự sống này được. Và ai ở trong ràn chiên của Người thì không bao giờ bị diệt vong. Đây là một kinh nghiệm được mạc khải bởi Đức Giê-su. Người chính là Đấng chăn chiên tốt đã hiến mạng sống vì ràn chiên. Kinh nghiệm này hoàn toàn mới mẻ và vượt xa kinh nghiệm mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã loan báo trong thời bị lưu đầy. 

Kính thưa anh chị em,
Chúng ta thường hay gọi Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, và đôi khi các Linh Mục là các nhà mục tử và đôi khi chúng ta còn lạm dụng và cho rằng các con chiên bổn đạo thuộc về các ngài. Nói cách khác đôi khi chúng ta lạm dụng từ ngữ rồi lẫn lộn cả nhiệm vụ nữa; thay vì là những người chăn chiên của chủ thì chúng ta lại định đoạt số phận của ràn chiên và coi chúng thuộc quyền sở hữu của mình. 

Thật ra, danh xưng người chăn chiên được dùng để nói đến trách nhiệm của chúng ta là những kẻ được đặt để chăm sóc, để quan tâm và nhất là để trao ban tình yêu cho người khác tùy theo ơn gọi mà Chúa đã mời. Thật ra, chính Chúa Giêsu mới là Đấng chăn chiên nhân hậu, còn chúng ta tuy được ban tặng cho danh hiệu đó; nhưng chúng ta vẫn còn và luôn luôn là những con chiên trong ràn chiên của Chúa.

Hẳn anh chị em còn nhớ khi trao quyền cho Thánh Phê-rô, Chúa Phục Sinh đã 3 lẫn hỏi Phê-rô có yêu mến Người không. Và cũng 3 lần Người nói hãy chăn dắt các chiên của Thầy. Chiên thuộc về Chúa còn Phê-rô chỉ là người cộng tác. Ý thức và biết rõ nhiệm vụ cũng như vị trí của mình, nên Thánh Phê-rô đã chia sẻ như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.” (1Pet 5:2-4)

Dựa vào các điểm nói trên, chúng ta nhận ra rằng người chăn chiên nhận công tác chăm sóc ràn chiên từ ông chủ. Và ông ta cần chu toàn tốt công việc mà chủ đã trao phó. Vì thế, người chăn chiên tốt là người biết bảo vệ ràn chiên cho chủ. Ông vẫn chỉ là người chăn thuê. Chiên không thuộc về tài sản của ông. 

Tóm lại, chỉ mình Đức Giê-su là Đấng chăn chiên tốt lành, nhân ái và thiện hảo. Cả thế giới và mọi người sống trong đó là ràn chiên thuộc về tay Người. Người đã chết để bảo vệ và cho ràn chiên sự sống và không ai có thể lấy mất được. Còn chúng ta, mỗi người đều là những người chăn dắt ràn chiên, nhỏ hay lớn, mà Thiên Chúa trao phó. Chúng ta không thể nào chu toàn trọn nhiệm vụ cao cả của mình, nếu không sống rập theo gương mẫu của Người Chăn Chiên duy nhất là Đức Ki-tô, Đấng đã chấp nhận mọi đau khổ, và sẵn sàng hy sinh mình để diễn tả tình thương cho mọi con chiên của Người. Cầu chúc anh chị em được như vậy.
Lm Joe Mai Văn Thịnh CSsR

No comments: