Thần-học-gia toại-nguyện,
người đó chính là tôi
*
Hồng y Alfrink
và Đức Phaolô Đệ Lục
(Bài 7)
Có
thể nói, giữa Đức Phaolô Đệ Lục và Hồng-y Alfrink
vẫn có mối giao-hảo, rất đặc-biệt. Ngay từ buổi họp khoáng đại giai-đoạn đầu Công
Đồng, khi ngài Montini còn làm Tổng
Giám-mục Giáo-phận Milanô, thì: Hồng
y Alfrink đã được mời đến Milanô thường xuyên giảng-dạy và mọi người
đều đã thấy tình đệ-huynh ở giữa hai đấng rồi.
Chắc
chắn một điều là: Hồng y Alfrink từng
ngưỡng mộ Đức Phaolô Đệ Lục hơn Đức Gioan 23 rất nhiều. Cả hai vị đều là các
nhà trí-thức trừu-tượng nhưng thường hay để ý đến các vấn-đề của thế-giới và của
Giáo-hội. Cả hai vị đều cực-kỳ bén-nhạy và dáng vẻ bên ngoài các vị tuy trầm-tĩnh
đến độ lạnh-lùng, nhưng bên trong nội-tâm lại rất sôi-sục.
Tâm-tính
Hồng-y Alfrink tuy say mê công việc
suy-tư, trí-óc nhưng đôi lúc ngài lại hay có nhưng câu nói khôi-hài lại cũng
tàn-nhẫn với một số người. Như vào lần đó, khi ngài đối-xử với Giám-mục Bekkers một cách tệ hại không thương tiếc.
Giám mục Bekkers vốn dĩ xuất thân từ
làng quê/thôn-dã thích bỏ giờ về các nông-trại sống giữa chim muông, loài thú.
Ngài đặc biệt thích nuôi ngựa. Hồng y Alfrink
nhiều lần cũng về trang trại để gặp ngài. Bản thân tôi, nhiều lần cũng có dịp tới
đó.
Có
lần, Hồng y Alfrink nói xỏ xiên một
cách tế-nhị với Giám mục Bekkers những
câu như: “Chúng nó chọn cho ngài một con
ngựa rất ư là thông minh, đĩnh đạc.” Giám mục Bekkers hiểu ý Hồng y có ý nói xỏ mình, nên nhiều lúc cũng bực mình
coi đó như lời lăng-mạ vì nghĩ mình không là nhà khoa-bảng và cũng biết rằng chẳng
ai coi mình là người trí-thức hết.
Tôi
cũng đã vài lần chỉ trích thẳng Hồng-y Alfrink
về tâm tính này của ngài. Ông có hơi sợ Đức Phaolô Đệ Lục, có thể nói ông hãi sợ
đến độ không dám yêu cầu ngài triệu-tập phiên-họp khoáng đại bao giờ hết. Ngay
vào thời Giáo hội yêu-cầu cả hai đấng cho biết ý-kiến về tình-hình của Giáo-hội
Hoà Lan, nhưng không thành. Riêng tôi, lâu nay không có khả-năng hiểu được tại
sao Hồng y Alfrink lại sợ Đức Phaolô
đến thế. Cũng có thể, vì ngài đến từ đất nước bé nhỏ và khe khắt của Calvin và chính ông lại cũng là người ủng-hộ
học-thuyết của nhà cải-cách John Calvin,
cũng rất mạnh.
Lần
đó, viện-trưởng trường Cao-đẳng của Hoà Lan có bảo với ngài rằng: “Chúng tôi cần ngài đi gặp Đức Giáo Hoàng để
cắt-nghĩa và đích-thân nói rõ cho Đức Giáo Hoàng hiểu tình-hình của bọn mình.” Và,
cả tôi nữa, nhiều lúc cũng thường nói: “Thưa
Hồng-y, ngài phải đi nói với Đức Giáo-hoàng về chuyện này hoặc vấn-đề ấy nữa.” Thế
nhưng, ông ấy không đồng ý làm thế. Ngay đến Hồng y Ottoviani cũng khuyên ông làm thế (*9).
Cuối
cùng thì, khi ông đi Rôma hội-kiến Đức Giáo Hoàng, xong rồi mới hài-lòng. Sau
Công Đồng, tôi cũng bị gọi lên Rôma để làm sáng-tỏ chuyện Đại-học Công-giáo ở Nijmegen. Lúc ấy, tôi làm chủ-tịch Uỷ-ban
Đại-học và tôi chủ-trương bênh-vực chọn thái-độ cởi-mở của trường này. Vị Bộ
trưởng thánh-bộ Giáo-dục Công-giáo ở Rôma (chuyên-trách chủng-viện và các viện
đại-học) lúc ấy là Hồng y Garrone (*10).
Giáo-sư
van der Ploeg, một tu-sĩ Dòng Đa-Minh
từng sống ở Nijmegen nhưng lại không
có liên-quan gì với nhà dòng này, đã tố-giác tôi với Rôma. Ông này đã dịch ra
tiếng Pháp một cách cẩu-thả bản tường-trình của Uỷ ban này và gửi nó đến Hồng y
Garrone chính vì thế nên tôi buộc phải
đi Rôma để làm sáng-tỏ tình-hình của Đại-học này. Trong lúc đó, thì Hồng y Seper khi ấy là Bộ trưởng thánh-bộ
Giáo-lý Đức Tin (*11) ra lệnh cho Hồng y Alfrink
phải đi Rôma trình diện.
Vấn-đề
đặt ra là về hôn-nhân của Giáo-sư Grossouw,
nhà chú-giải lừng danh từng viết nhiều sách, trong đó có cuốn nói về kết-quả
của việc mở rộng Giáo-hội ở Hoà Lan. Một tác-giả viết về chuyện thiêng-liêng của
Sách thánh, được cả ngàn độc giả đón đọc như Giáo sư Groussow là người đã phải lòng yêu thương rồi có ý-định kết hôn với
người mình thương yêu. Ngày giờ tổ chức lễ hôn-phối đã được ấn-định; nhưng, trước
đó 4 ngày, Hồng y Alfrink nhận được bức
điện-tín do Hồng y Seper gửi, bức điện ấy yêu-cầu Giáo-sư Groussow phải từ-nhiệm vai-trò giáo-sư tại Đại-học Nijmegen.
Hồng
y Alfrin đã chuyển đến cho tôi và nói cho tôi hay về
chuyện này. Nghe vậy, tôi bèn nói: “Thưa
ngài, mọi việc đã được sắp xếp cho tiệc cưới rồi.” Hồng y Alfrink không nói
cho giáo sư Grossouw một tiếng nào. Bức
điện-tín có ghi rõ về điều-kiện ắt và đủ
về hiệu-năng của đám cưới bảo rằng: Giáo
sư Grossouw phải ngưng không được
phép dạy học nữa.
Thấy
thế, tôi bèn nói với Hồng y Alfrink rằng:
Toà thánh La Mã không thể đặt điều-kiện về hiệu-năng của hôn-nhân như thế được,
bởi lẽ luật-pháp thông-thường có trước mọi toan-tính/sắp xếp của Giáo-hội chứ.
Hồng
y Alfrink cũng đồng quan-điểm với
tôi, nhưng ông lại giữ im-lặng không nói gì về tình-hình nội-bộ cho Giáo sư Grossouw biết, nên giáo sư nhà mình cứ
thế tiến-hành lễ hôn-phối trong bầu-khí long-trọng đầy thương yêu, như không có
gì xảy đến. Tôi vẫn đến, mang ít nhánh hoa đặt trước bàn thờ Đức Mẹ để mừng
chúc. Giáo sư Grassouw chẳng biết mô
tê gì về bức điện-tín ấy mãi cho đến khi tôi kể cho ông nghe chuyện này, về sau.
Tôi
gặp Hồng y Alfrink ở Rôma, ngay trước
cổng trường Cao Đẳng của Hoà Lan, trên chuyến ông quay trở về tiếp chuyện với Hồng
y Seper. Ông chỉ cười trừ, cách dễ thương. Ông có kể lại cho tôi nghe biết về
cuộc gặp mặt này và chuyển cho tôi lời lẽ của Hồng y Seper, nói như sau: “Thưa
ngài, trên cương-vị của người mục-tử tôi hẳn cũng sẽ làm y hệt như ngài, thôi.”
Quả là, trong các tình-huống có hơi khó khăn đến thế nào đi nữa, thái-độ của
Hồng y Alfrink bao giờ cũng xử sự như
chàng trai trẻ, nhỏ tuổi. Ông từng sống trong trạng-thái lúc nào cũng lo-âu, u-sầu
hết.
Thế, ngài có nhớ gì về
Đức Phaolô Đệ Lục không đấy?
Vào
Công-nghị Mục-vụ trên toàn nước Hoà Lan năm 1971 hoặc 1972, đa số các nghị-viên
đều muốn tách-rời chuyện bắt buộc sống độc-thân khỏi chức linh-mục. Công-nghị
này đòi hỏi Rôma chọn vấn-đề độc-thân linh-mục đưa vào nghị-trình hội họp.
Khi
ấy, đã thấy nhen nhúm một tranh-luận sôi-nổi giữa Toà thánh và Hoà-Lan, vấn-đề
này còn đi xa hơn nhiều chuyện bức thư của hàng Giám-mục nước này vào năm
1960 khi đề-cập đến ý-nghĩa của Công Đồng.
Tổng-trưởng ngoại-giao Villot (*12)
khi ấy đã bảo-vệ lập-trường của Hồng-y Alfrink và khuyên Đức Giáo-hoàng là đừng
nên ra tay hành-động gì hết.
Thế
là, Hồng-y Alfrink đi Rôma gặp Đức
Giáo-hoàng tường-trình và cắt-nghĩa cho ngài hiểu rõ đòi hỏi của Công-nghị Mục-vụ
này về chọn đời độc-thân linh-mục. Lúc ấy, Đức Giáo hoàng bèn nói: “Theo lập-trường của tôi, thì sống đời độc-thân
linh-mục phải là chọn lựa, thế nhưng tôi không muốn được lịch-sử ghi-nhận rằng
tôi là vị Giáo-hoàng đã phá bỏ chức độc-thân bắt buộc.” Ngài nói rõ ràng là
như thế.
Năm
1965, tôi có viết cuốn “Chủ-trương Sống đời
Độc-thân Linh-mục của Giáo-hội” ngay sau khi được Hồng-y Alfrink kể rõ những gì Đức Phaolô từng
nói, với chủ-đích chuẩn-bị cho người Công-giáo Hoà Lan sẵn-sàng việc tách-bạch
chuyện bắt buộc sống độc-thân khỏi việc phong-chức cho linh-mục cho rạch ròi.
Ý
của tôi khi ấy muốn bảo rằng: làm thế là để chuẩn bị cho mọi người biết mà chấp-nhận
chọn đời sống độc-thân, mỗi thế thôi. Các vị tiến-bộ hơn, lại đả-kích tôi do bởi
cuốn sách tôi viết không mạnh đủ để thuyết phục người đọc.
Khi
ấy, tôi cũng đã xác-tín rất nhiều như bây giờ về cả những sự việc khác --rằng:
nếu không chuẩn-bị kỹ cho mọi người, thì khi có lỗi-lầm to tát xảy rado ta phạm,
thì đó là do lỗi ta đã khuyến-dụ các cuộc cải-tân không đúng cách nên mới tạo cớ
gây tai hại hơn là giúp cho đời sống Giáo-hội được phát-triển.
Chẳng
hạn như, chuyện cho phép phụ nữ làm linh-mục. Ta phải chuẩn-bị thông-tri, dẫn-giải
và tham-gia dự phần vào với vấn-đề này, nếu không thì sự việc sẽ đi trệch đường
mình mong muốn. Hồng y Alfrink lúc ấy
cũng hoàn toàn tán-đồng câu chuyện tôi bàn trong sách nói về đời sống độc-thân.
Chú-thích:
(*9) Ông là Hồng-y người Ý
ở Rôma, là Trưởng Văn-Phòng Toà Thánh, khét tiếng về tính cứng-ngắc. Ông tích-cực
chống lại Thần-học Mới của người Pháp.
(*10) Ông là cựu Tổng
Giám-mục giáo-phận Toulouse, sinh năm 1901. Ông còn là thành-viên Uỷ-ban Tín-lý
Công-Đồng. Năm 1966, Đức Phaolô Đệ Lục bổ-nhiệm ông là Thứ-trưởng Bộ Chủng-sinh
và Học tập.
(*11) Ông là cựu Tổng
giám-mục của Zagreb, là nhân-vật chủ-chốt thời Công Đồng Vatican 2. Ông kế-nhiệm
Hồng y Ottoviani là Trưởng Văn Phòng Toà Thánh La Mã.
(*12) Ông này trước đây
là Tổng Giám-mục thành Lyons, là một trong 5 vị phó tổng thư-ký Công Đồng, Ông
được Đức Phaolô Đệ Lục gọi về Rôma.
(còn tiếp)
Lm Edward
Schillebecckx chuyện
trò với Francesco Strazzari
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment