THƯ THỨ HAI GỬI TÍN HỮU
CORINTHÔ.
Thư tịch :
Các sách nhập đề (Robert-Feuillet : Introduction à la Bible
437-450.
A.Wilkenhauser, W.Michaelis, Meinertz.
DBS tome VII , 183-195 (A.Feuillet)
Sách chú giải : Allo, Lietzmann. Hering,
O.Kuss, Plummer
Xác thực :
Hiện bây giờ : Ngoài mọi tranh luận (Rõ ràng của Phaolô)
Hoàn cảnh lịch sử:
Các biến
cố xãy ra từ thư 1Cor đến việc thư nầy gồm có:
- Một thư đã mai một.(Ám chỉ trong
2:3 4
9 7:8t 12).
Viết trong
một hoàn cảnh bi đát – Thư đẫm lệ - (2:4), nghiêm nghị và tàn nhẫn nữa, cốt để
thử biết tín hữu Corinthô thế nào, và thực sự đã làm cho họ (ít là số đông)
phải hối tiếc. Thư đó có nói đến một vụ xung đột (một người xúc phạm và một kẻ
bị xúc phạm). Bởi hoàn cảnh như thế, nên thư ám chỉ đây không thể là 1Cor.
- Một hành trình của Phaolô đi
viếng Corinthô.
Ám chỉ đến
trong 2Cor (12:14 13:1- Lần thứ ba). Như
vậy, cùng lần giảng đạo đầu tiên và lần hứa sẽ đến trong 2Cor, còn có một lần ở
giữa. Không biết rõ lâu hay chóng (nhưng có lẽ chóng), trong cơ hội nào. Nhưng
cuộc viếng thăm đó mang nhiều buồn tủi, đến đỗi Phaolô không muốn thấy sự thể
như vậy tái diễn (2:1). Nhân dịp đó, thánh Phaolô phải nghiêm nghị quở trách
nhiều người có tội (13:2 12:21).
- Một vụ xung đột. 2:5-11
có nhắc lại.
Những gì
ngoài các lời đó thì chỉ còn là phỏng đoán về biến cố. Không thể đồng nhất vụ
nói đây với nố loạn luân nói trong 1Cor 5:1-13 (vì trong nố nầy thánh Phaolô ra
hình phạt trục xuất khỏi cộng đoàn, còn người xúc phạm đây thì bị cộng đoàn ra
vạ, và lỗi phải hiểu là một vụ bất phục tùng (đối với ai, chính mình Phaolô hay
người đại diện).
Với những
biến cố trên nầy làm chốt, trình tự các việc diễn ra đại khái như thế nầy :
Chừng 1
năm trước thư 1Corinthô được viết (2Cr 8:10
9:2 – nói rằng việc tổ chức quyên giáo đã làm năm ngoái), hiệu quả mong
muốn đã đạt được đến đỗi những tệ đoan trước không còn phải đề cập đến một lần
nữa. Nhưng chẳng bao lâu (có lẽ trong 1Cor đã có ít triệu chứng mù mờ), những
khó khăn mới xãy ra. Timothê (1Cr 16:10) không được tiếp rước như ước mong. Có
những thừa sai Do Thái phiệt đã xâm nhập vào Giáo hội và cố làm lung lạc uy thế
của thánh Phaolô. Bởi đó,thánh Phaolô đã vội vàng viếng thăm Corinthô, để gắng
lập lại quyền của ngài. Có khi vào thời đó, việc xúc phạm nói trên đã diễn ra.
Việc
xúc phạm đó có khi do một Tông đồ thượng đẳng (11:5). Để dàn
xếp việc dở dang đó, thánh Phaolô viết bức thư mai một rồi. Bức thư đã đem đến
hiệu quả mong muốn, nhưng không hẳn trăm phần trăm. Cùng với thư đó, thánh
Phaolô còn phái Titô đi nữa để thu xếp công việc và tổ chức quyên trợ, hẹn với
Titô mau mau công việc để về báo tin ở Tro-a, nhưng khi sang đến Makêdonia,
thánh Phaolô mới gặp được Titô về. Để thanh toán vấn đề và tái lập quyền Tông
đồ trên Giáo hội Corinthô, thư 2Cor được viết ra. Duyên do những điều xãy ra là
sự chống đối của một phe nghịch với Phaolô và Phaolô phải đả kích mạnh (2Cr
2:5-9 7:9 11 và nhất là các đoạn 10-13.
Tính cách
duy nhất của 2Corinthô.
Có 3 khúc
rất được bình luận đến:
- 6:14
7:1 Phá rối liên tục tư tưởng (7:2 nối ngay với 6:12t). Từ ngữ có vẻ
khác văn của thánh Phaolô. Thái độ nói đây không hoàn toàn đi với 1Cor
5:9tt 10:27tt.
- Đoạn 9: Nhiều tác giả coi như trùng với
đoạn 8 và thực sự cũng lạ vì cả hai đoạn đều bàn đến quyên trợ mà như thể không
biết nhau.
- Vấn đề khó giải thích hơn là các đoạn
10-13. Thay đổi thình lình về giọng nói : Đang hiền lành, yêu thương thì lại
gặp những lời ngăm đe, đả kích. Có những điều khá vấp váp trong đoạn nầy và các
phần khác trong thư. Thí dụ : 1:24/13:5
7:4 . 14-16 8:7/ 10:2 13:2tt (coi
Rigaux, St Paul et ses letters, 154-157).
Thư chia
làm 3 phần.
- 1-7 : Biện
hộ cho sứ vụ Tông đồ của Phaolô.
-
8-9 : Về sự quyên trợ cho Yêrusalem.
- 10-13 : Biện hộ cho sứ vụ của Phaolô (có
tính cách bút chiến).
2Cor có
những điểm đạo lý quan trọng về liên lạc giữa 2 Giao ước (1Cor 3-4), về mầu
nhiệm Giáng sinh cứu chuộc (3:4 6 5:14t
18t 8:9), về Thánh thần (3:3 8
13:10, về tín hữu sau khi chết (5:6-10)
Nhưng quý
hơn cả, 2Cor cho biết công việc truyền giáo của Phaolô, và nhất là con người
của Phaolô.
2Cor 1:1-11
NHẬP ĐỀ.
Lời chào
không nhấn đến tính cách phổ cập của Tin Mừng như trong 1Cor, nhưng có nới rộng
để bao gồm cả các tín hữu Akhaia.
Không có
lời tạ ơn : Báo trước nội dung của thư (một bức thư có kèm quở mắng. Ngược lại
có lời chúc tụng Thiên Chúa – nhân dịp những tai ương khốn khó thánh Phaolô đã
ngang qua.
Tai ương
khốn khó đó là gì ?
Có thể là
một cơn bệnh trầm trọng hay là cấm cách bắt bớ do bởi người ngoại hay Do Thái.
Không thể xác định được. Điều quan trọng là nhân đó mà thánh Phaolô – bởi kết
hợp với Chúa Kitô – lại được thêm an ủi và thông được sự an ủi đó cho tín hữu
Corinthô.
1:12 – 7:16 Phần I – Biện hộ cho sứ vụ Tông đồ của Phaolô.
Lời biện
hộ nầy gồm có 3 phần :
- 1:12 – 2:13 Đáp lại lời trách là đã nhẹ dạ nông nổi, mưu
mẹo xuyên tạc Tin Mừng.
- 2:14 – 6:10 Vinh dự của sứ vụ Tông đồ.
- 6:11 – 7:16 Lời kêu gọi tâm hồn tín hữu.
1:12 – 2:13 Thánh Phaolô đã phải thay đổi dự
định hành trình.
Người ta
trách ngài nhẹ dạ. Những lời thanh minh đầy tâm tình, nhưng khá phức tạp. Phải
chính người trong cuộc mới biết các tiếng nói có ám chỉ đến những gì. Các nhà
chú giải phải đoán mà hiểu, nhưng không thể dựa trên những dữ kiện của 1Cor, vì
hoàn cảnh khác.
Thánh
Phaolô nói ngài đã thay đổi hành trình, không phải vì nông nổi. Là Tông đồ của
Chúa Kitô, tức là lời đáp Ừ của
Thiên Chúa ( Chúa Kitô là thực hiện lời hứa của Thiên Chúa, là cái Ừ của Thiên
Chúa) cho mọi Lời Hứa, ngài đã không dụ dựa giữa Có có Không không (Kiểu
lập lại Có có Không không là kiểu để thề của Do thái). Kỳ thực, ngài đã
nể nang tín hữu Corinthô và muốn tránh cho mình một nổi ưu phiền, như đã diễn
ra trong cuộc viếng thăm mới trước đây.
Câu 2:4 Nhắc lại cái thư đẫm lệ.
Câu 2:5tt Nhắc lại sự xúc phạm và người xúc
phạm đã trừng phạt do cộng đoàn.
Thánh
Phaolô xin cộng đoàn hãy khoan dung với người đó.
Điều đáng
chú ý:
Câu 17
chắc có ngụ ý đến logion của Chúa : Mt 5:37 / Yc 5:12. Theo hình thức logion,
thì hình thức Yc 5:12 cựu trào hơn cả. Còn trong 2Cor 1:17 có điều khó cắt
nghĩa về việc lập lại 2 lần Có có Không không : Hiểu là Có thì thật là có,
Không thì thật là không, thì không đi với mạch lạc (nghịch với Hofmann, Zahn,
Schlatter). Baljon,Schmiedel muốn đổi : Có lại Không, Không lại Có – Đúng với
mạch lạc, nhưng chứng chỉ văn kiện không có giá trị. Vậy hãy hiểu Có có Không không
như những kiểu nói nhấn mạnh thôi.
Câu 1:20-22 Một điểm đạo lý quan trọng.
Hình như
ám chỉ đến các bí tích, nhưng khó mà hiểu rõ rệt. Xức dầu, niêm ấn chỉ các
bí tích Thanh tẩy, Thêm sức. Nên để ý đến ám chỉ về Chúa Ba Ngôi.
2:14 – 6:10 Sứ vụ Tông đồ. (Thư
2Cr viết cách bộc phát, không dọn trước như Rm hay Ep)
Một cách
đột ngột, thánh Phaolô bỏ trình thuật hành trình để mãi đến 7:5 mới tiếp tục.
7:5 có thể ăn khớp với ngay vào 2:13 – Bởi đó có tác giả muốn coi 2:14 – 7:4
như một thư riêng , chêm vào đây bởi lầm lẫn – Nhưng ức thuyết đó không cần
thiết.
Không thể
các nghĩa các thư thánh Phaolô theo kiểu cắt rồi dán lại cho có liên tục theo
cái hợp lý của chúng ta. Những gián đoạn có thể do nhiều nguyên do, mà tâm tình
của thánh Phaolô là một nguyên do phải châm chước. Có thể ngài muốn trút cả tâm
hồn đã để rồi lấy lại mạch lạc về hành trình của Titô. (có tác giả cho rằng
2:12-13 không đúng chỗ, nhưng trước tiên ở trước 7:5)
2:14 – 3:6 Sự trung tín của Tông đồ.
Thừa sai
của Tin Mừng là hương thơm của Chúa Kitô giữa người ta. Người ta có thể tin cậy
vào lời Ngài. Ngài không cần đến thư giới thiệu. Chính tín hữu, Giáo hội của
Ngài lập, là bức thư sống tỏ cho thấy Ngài là người phục vụ Giao ước mới, dưới
sức huy động của Thần khí Thiên Chúa.
Tiếng hương
thơm sự biết là một kiểu nói đã có trong Cựu Ước (Sách Huấn ca Ben Sira
24:15 39:14), trong thế giới Do Thái
(Khải huyền Barúc). Hương thơm đó lấy từ hương thơm của tế lễ, và công việc
Tông đồ được coi như một lễ tế (Rm 15:16). Nhưng hương thơm đó lại có những
hiệu quả nghịch nhau (nên so với 1Cor 1:18
23-24).
Câu 17: Thánh Phaolô không
ngại ngùng phân biệt mình với các người khác trong việc thi hành sứ mệnh. Bên
họ - hạng con buôn (chính nghĩa làm theo kiểu chủ quán : vị lời, pha chất, giả
mạo, xuyên tạc).
Từ đây,
thánh Phaolô bắt đầu bác một lời vu cáo từ đối phương : Kiêu ngạo. Nhưng tay vì
bác lý suông, thánh Phaolô trình bày quan niệm sứ vụ Tông đồ.
Câu 3:1-3 : Nếu có những giảng
viên phải viện đến chứng thư nầy khác để cho người ta biết mình có quyền gì thì
thánh Phaolô dám nói mình không cần đến chứng thư của ai cả. Những việc Thiên
Chúa đã làm nhân sứ vụ của ngài là chứng thư không thể mạo được. Chứng thư đó
cuối cùng là sự liễu thành Giao Ước mới (nhờ Thần khí của Thiên Chúa hằng sống)
nơi tín hữu Corinthô.
Câu 4-6: Nhưng sự chắc chắn
nơi lương tâm thuần khiết của thánh Phaolô dựa tất cả vào công việc cứu rỗi của
Chúa Kitô. Sự cán đáng được trách vụ Tông đồ, người ta không thể có bởi sức
mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể kêu gọi vào một công việc lớn lao như thế.
Chính Thiên Chúa đã gọi Phaolô cùng các kẻ cộng sự đến phục vụ giao ước mới –
đối chọi với Giao Ước cũ viết trên một văn kiện – Giao Ước mới dựa cả trên mãnh
lực của Thánh Thần và được gọi là Thần Khí.
Nên hiểu ý
nghĩa Kinh Thánh đối với thánh Phaolô : Kinh Thánh là sấm ngôn của Thiên Chúa
(Rm 3:2 11:4). Kinh Thánh có tính cách
những Lời Sấm : Huyền bí, hóc búa, khó hiểu. Muốn hiểu phải cần có một ơn giải
thích. Ông Yuse, Daniel được ơn giải mộng triệu, Thánh Thần cũng ban cho tín hữu được hiểu
Kinh Thánh. Trong đoạn nầy, thánh Phaolô bàn đến việc hiểu Kinh Thánh đó. Người
Do Thái loay hoay nơi văn tự của Lề luật. Họ không nhận ra Lề luật, nguyên chỉ
là Lề luật, thì thành ra như bức màn che ý nghĩa. Lề luật là văn tự, đối chọi
với Thần Khí. Phản đề Văn tự / Thần Khí (tinh thần) được chuyển vào mạch lạc đạo lý
Lề Luật / Thánh Thần. Lề luật chỉ là chữ viết, rặt là những lệnh truyền, những
công thức không sức lực gì cả. Trái lại, Thần khí là mãnh lực, là thông hiểu.
Bo bo nơi chữ viết, tức là khước từ Thần Khí, mà Thần Khí lại là mãnh lực đã
gầy tạo nên Kinh Thánh.
Chỉ bởi bo
bo vào tư cách Lề luật, một luật phạt nghiêm nhặt mà lại không ban sức, thì
phải nhận Luật đó thế nào cũng đem cái chết (tử hình) cho con người bị phó mặc
cho sự tội không sức gỡ thoát.
2Cor 3: 7-18
4:1-6 CHỨC VỤ TÔNG ĐỒ.
Tất cả sự
cao trọng của chức vụ Tông đồ đều dựa trên tư cách phục vụ Giao Ước mới. Nghĩa
là sự cao trọng đó do tự Thiên Chúa mà đến thôi, và sự yếu đuối của những dụng
cụ là người ta chỉ làm nồi bật sự cao trọng đó. Công việc phục vụ Giao Ước củ
đã là vinh hiển lắm, chứng chỉ là sự rạng ngời chiếu ra tự mặt Môsê, sau khi
ông được gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Sinai. Dẫu vậy, đó vẫn còn là phục vụ chữ
viết, án phạt, sự chết, và hướng tất cả đến một điều nhất thời. Như
vậy thì phải nói làm sao về vinh quang riêng của việc phục vụ Thần Khí vĩnh tồn
?
Thực sự
thì nhiệm vụ của Tông đồ là chiêm ngắm như thể trong gương vinh quang của Chúa,
tức là Thần Khí, và được biến hình đổi dạng theo hình ảnh Ngài, được chiếu sáng
do từ Chúa Kitô để có thể thông ra, không màn che, như một phản ảnh, sự biết
vinh quang được của Thiên Chúa đã lộ diên nơi dung nhan Chúa Kitô.
Để so sánh
Giao Ước cũ và Giao Ước mới, thánh Phaolô suy nghĩ về vinh quang của Môsê được,
chiếu theo Xh 34:29-35. Ngài giải thích theo kiểu Midrash và vạch ra liên lạc
giữa hai nhiệm cục cứu rỗi.
Câu 4:7 Nhiệm cục cũ được gọi vắn tắt là
việc phục vụ giới sự chết.
Nhưng cũng
phải nhận rằng nhiệm cục đó do bởi Thiên Chúa và cốt là vì mục đích cứu rỗi. Do
cái vinh quang nhiệm cục đó có, thánh Phaolô thấy vinh quang đó được biểu tượng
nơi sự rạng ngời nơi mặt Môsê.
Thánh
Phaolô có thể đối chiếu Doxa nơi mặt Môsê và Doxa của sứ vụ Tông đồ là vì Kabôd
(doxa) trong Cựu Ước thường được hiểu về thực tại Thần linh của Thiên Chúa,
dưới phương diện nhìn thấy được và nên hiện tại để cứu dân Israel, hay để thông
ra cho dân một cách nào. Như thế, Kabôd được liên lạc mật thiết với
việc cứu thoát, tế độ của Thiên Chúa. Khía cạnh đó càng rõ hơn trong bản dịch
LXX (Ys 12:2 – Sức mạnh của tôi lại
dịch bằng Doxa. Ys 44:23 LXX : Doxasthesetai / δοξάσθησεται
(Glorificalibur Israel/ Rạng vinh trong Israel). TM – Et glorificabit
se in Israel. Ys 63:12-14 TM brachio majestatis suae – Cánh tay uy nghi
của Ngài / LXX brachio gloriae suae – Cánh tay vinh quang của Ngài).
Câu 8-11 Một lý luận theo kiểu các rabbi.
Qal
wahomer (Qal : Nhẹ Wahomer : Nặng) – cũng như
a
fortiori – Đối chọi những tư cách của 2 Giao Ước và doxa hơn kém do bởi
những tư cách đó.
Đây có cả
một vấn đề - Nghĩa tượng trưng của Kinh Thánh :
Trình
thuật Xh 34:33-35.
- Xét về bình luận tôn giáo (Tôn giáo
tỉ hiệu).
Có những
tác giả coi như dọi lại một trình thuật cựu trào hơn, theo đó thì khi nào Môsê
nói với dân nhân danh Thiên Chúa thì
dùng mặt nạ (Có người nói đến Têraphim (thần hộ mệnh gia đình, một
từ khó hiểu), nhưng Têraphim
đã được đúc ra để khinh rẻ tượng thần bằng gỗ của gia đình). Thời sau lấy làm
chướng nên đã đổi ý nghĩa.
- Trình
thuật Xuất Hành hiện tại P :
Không rõ ý
hướng về điều gì trong 2 giả thiết :
+ Đề phòng cho dân khỏi bị tiêu
diệt trong Vinh quang của Thiên Chúa (cho dẫu chỉ bằng một phản ảnh nơi mặt Môsê)
+ Tránh cho Vinh quang của
Thiên Chúa (dù là phản ảnh) khỏi mắt phàm tục coi đến (một sự phạm thánh nào)
Có thể cả
hai ý có thể ngụ đến một trật. Trình thuật cốt cho thấy khoản cách giữa Thiên
Chúa và người ta. Một trật, cũng đã có nhịp cầu giao thông phát xuất từ ý định
Thiên Chúa muốn mặc khải.
- Thánh
Phaolô dùng trình thuật :
Để minh
họa ưu điểm của Tin Mừng trên Cựu Ước: 2Cr 3:7-18. Việc sử dụng trình thuật
theo lối tượng trưng và theo hai hướng :
+ Thánh Phaolô tự mình đem vào
ý tưởng : Khăn chùm mặt là cốt không cho dân nhìn thấy lúc sự rạng ngời kia tan
biến đi (Câu 13 – Theo kiểu chú giải của đại đa số các học giả). Ngài thấy đó
có ngụ ý về tính cách nhất thời (sự sẽ bị hủy) của vinh dự Cựu Ước (Của việc
phục vụ Cựu Ước).Việc phục vụ đó, dù sao cũng đã được vinh quang lớn lao đến
đỗi con cái Israel không thể nhìn vào mặt chói sáng của Môsê (Câu 7). Kết luận
: Thế thì việc phục vụ cho điều vĩnh tồn là Tân Ước sẽ được vinh quang lớn biết
chừng nào (8-11). Bởi đó mà những người phục vụ Tân Ước có thể đầy lòng tín thị
mà ra mặt. Họ không cần phải che dấu gì cả.
+ Câu 14a đổi hướng thình lình.
Thánh Phaolô đề cập đến vấn đề cứng tin, không nói đến trong đoạn Xuất hành
trên, nhưng là trong cả trình thuật về thời sa mạc và áp dụng cho những người
Do Thái không tin trong thời ngài. Cho đến bây giờ, mỗi khi đọc Cựu Ước – Môsê
như thể đấng mặc khải suốt thời gian – cũng cái màn ấy còn đó (tiên trưng và
phản ảnh). Việc áp dụng gây thắc mắc vì doxa Israel phải nhìn thấy đây không
còn là doxa của Thiên Chúa chiếu dọi nơi mặt Môsê, nhưng là doxa của Chúa Kitô.
Nhưng xác tín căn bản Thiên Chúa cứu rỗi chỉ là một cho dù là trong Cựu Ước hay
Tân Ước. Lời Cựu Ước hiểu cho nhằm thì phải nói đến doxa của Chúa Kitô. Nhưng ý
tưởng : Màn lại ở nơi mặt Môsê, có thể quấy rối mục đích của lối tượng trưng.
Vì thế nên câu 15 tỉ dụ được quay qua phía khác nữa : Màn rủ xuống những người
Do Thái cứng tin. Chuyển được như thế , vì dù sao, thì màn vẫn choán giữa một
bên là doxa của Thiên Chúa và bên kia là Israel, ngăn cản không cho Israel
thấy. Điều đó chỉ chấm dứt một khi Israel trở lại (Rm 11:25). Điều nầy, Phaolô
cũng đọc thấy trong Xh 34:34a. Tuy nhiên, muốn lợi dụng xuất xứ, thánh Phaolô
đã thay đổi :
* Hiểu tiếng đi đến (Môsê vào
trướng Tao phùng) theo nghĩa trở lại (hối cải)
* Hiểu mệnh đề nói về Môsê như
ám chỉ đến dân cứng tin.
* Mệnh đề quá khứ đem về vị lai.
Bởi đó ý nghĩa khi nào Israel trở lại quay về Chúa (Yahvê trong Xuất hành),
nhưng Chúa Kitô trong ý thánh Phaolô, thì màn che kia sẽ cất đi. (Ý tưởng : coi
Rm 10:2tt 11:25tt 2Cr 4:3).
Câu 12: Vấn đề parrèsia
/ παρρησία/ bộc trực của
sứ vụ Tông đồ (Lòng đầy dạn dĩ)
Parrèsia : Một
quan niệm đặc biệt của trường chính trị tiểu quốc Hy lạp, có đặc điểm của dân
chủ, của tinh thần tự do nơi nền dân chủ đó. Ý niệm có 3 khía cạnh :
- Quyền được nói mọi sự : Một công dân
chính thức được quyền lên tiếng nói công khai.
- Trong khi sử dụng quyền đó, người ta có
thể nhấn đến sự có thực của điều nói ra và như vậy Parrèsia có thể ngụ ý đến
sự thành thật, sự mở toang ra cho sự thật, sự cởi mở, bỏ ngỏ, trái với khuynh
hướng của sự vật bưng kín, hay của người ta muốn che dấu sự vật.
- Trong việc sử dụng quyền ăn nói, người ta
có thể gặp cản trở bởi những người phải nghe lời nói cách ấy, nên Parrèsia
còn hàm ẩn sự bạo dạn, can đảm mà thẳng thắn trong lời nói, không sợ uy lực
muốn hạn chế sự mở tung sự thật ra.
Quan điểm
chính trị đó đã được chuyển thành một đức tính của hiền nhân quân tử theo môn
Khắc kỷ (Khuyển nho). Trong các thư thánh Phaolô, parrèsia là một tư cách
đặc biệt của sinh hoạt nơi tín hữu và nhất là nơi thừa sai Tin Mừng : Một sự
dạn dĩ đối với Thiên Chúa (Eph 3:12) và đối với người ta (Eph 6:20 1Th2:2
2Cr 7:4 1Tm 3:13). Vậy dạn dĩ
(2Cr 3:12) vừa đối với Thiên Chúa vừa đối với người ta : Đối với Thiên Chúa đã
không màn che mặt, thì đối với người ta cũng thế được.
Sự dạn dĩ
đó của đời sống Tông đồ căn cứ trên ân huệ của Tin Mừng : Được phục vụ Doxa bất
diệt, doxa gây nên một tín thị không gì lay chuyển nổi (3:4tt). Tiêu cực :
Không phải che dấu gì cả. Tích cực :Phản ảnh của Doxa vĩnh tồn đã nắm được
trong lòng trông cậy.
Câu 17: Một câu gây tranh luận nhiều.
Thư tịch :
- RB 59 (1952) 129-131. Recension de B.
Schneider : Dominus autem Spiritus est.
- Allo, 2Cor, 93-96 (ad loc.) Excursus VII
103-111
- L. Cerfaux , Le Christ dans la théologie
de St Paul, 220-223.
Le chrétien dans la
théologie paulinienne 320-323
- Lyonnet (Manuscriptum).
- F. Prat , Théologie de St Paul , II note
T (522-529) (Học về Chúa Ba Ngôi)
- G. Lebreton , Histoire du Dome de la
Trinité I Nota F (611-615)
- RSR 1951 / 2 (Mélanges Lebreton I)
338-352 J. Daniélou: Christos Kyrios.
Une citation des Lamentations de Jérémie dans les testimonia.
Các giải thích :
1.
Các Giáo phụ : Phần đông hiểu tiếng Thần Khí (Pneuma) là Chúa Thánh Thần,
còn Kyrios chỉ Thiên Chúa (theo bản tính), nhưng cũng có Giáo phụ hiểu về Chúa
Kitô.
2.
Thế kỷ 19 : Các học giả duy lý dùng xuất xứ để bác tính cách ngôi vị của
Thánh Thần.
3.
Hiện tại : Các nhà chú giải, nhất là Công giáo theo hai hướng :
- Pneuma đây không phải là
Thánh Thần (F. Prat, G. Lebreton, Allo,
Bonsirven, Spicq) nhưng là ở trong mạch lạc văn tự / thần khí ( Allo : Seigneur était l’esprit de la
Révélation au d’objet, (p. 109)…mais au sens propre, formel, dans ce
verset 17a comme dans toutes la page,
c’est “ l’esprit ” opposé à la “lettre”).
- Kyrios đây không phải là Chúa
Kitô nhưng chỉ Thần tính của Thánh Thần.
- Sự đồng nhất trong tác động
thiêng liêng.
L. Cerfaux :
A cause de l’article (tò pneũma), nous croyons que St Paul désigen par
ce mot L’Esprit Saint. Le contexte traite de la lecture de l’A.T. L’apôtre fait
allusion à la doctrine chrétienne primitive : nous ne pénétrons le sens de l’écriture
que lorsque Le Christ nous en ouvre l’intelligence et que la gnose nous est
communiquée…Paul comprend Le Seigneur comme étant Le Christ, et il note : Le
Seigneur, c’est Esprit-Saint. C’est-a-dire que celui qui convertit au Seigneur,
par le fait même, entre communication avec L’Esprit-Saint. Le contexte ne
suggère pas du tt que St Paul voudrait donner une définition du “Seigneur” et
l’identifierait à L’Esprit-Saint. (Le Christ…221s).
Theo các
xuất xứ như 1Cor 15:45 và mạch lạc trong 2Cor 3 thì giải thích cuối cùng nầy
mới nhằm ý của văn bản.
Câu 18 : Cũng
lại là một câu tranh luận.
Thư tịch :
- RB56(1949) 392-411 : J. Dupont, Le
chretien, mirroir de la gloire divine d’apres 2Cr3:18.
- Hugede (thệ phản). La metaphore du mirroir
dans les epitres de St Paul aux Cor, p.17-36.
Chiêm
ngưỡng như trong gương (Hy lạp : Katoptrizómenoi – κατοπτριζόμενοι)
Nhiều tác
giả hiểu chiếu lại. Tín hữu mặt không màn che phủ như Mose chiếu lại vinh quang
Thiên Chúa (Théodoret. EB. Allo,
Bachmann, Lietzmann, A. Plummer, Héring – hiểu theo passif : traités comme un
mirroir – réfléter).
Nhưng
tiếng Hy lạp của tiếng dùng : Nhìn ngắm như bằng cái gương. Nên để ý
đến hướng của 2Cor – so sánh được chuyển từ Môsê và tín hữu sang Israel và tín
hữu, để vạch ra ưu điểm của Tân ước. Từ câu 14 trở đi, ý tưởng nhắc cả tới
Israel có màn ngăn cản không cho nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Còn tín hữu
được đi thẳng không gì cản trở để đến cùng Thiên Chúa. Sự so sánh giữa tín hữu
và Do Thái nhằm vào chỗ chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa.
Có điều lạ
là sao đang khi nói đến ưu điểm của tín hữu, thánh Phaolô lại dùng hình ảnh gợi
đến sự khiếm khuyết của việc nhìn ngắm đó. (1Cor 13:12 – Nhìn trong gương là
thấy một cách khiếm khuyết). Vấn đề trong đoạn 2Cor 3 nhấn đến cái màn, sự ngăn
cản không cho Do Thái nhìn thấy sự vinh quang của Chúa, nhưng tín hữu được
không màn che mặt, đó là ưu điểm. Nhưng Phaolô vẫn xác tín rằng – Không ai sống
trên trần mà lại được nhìn thấy chính Thiên Chúa – dĩ nhiên chưa phải là diện
đối diện trong thời phúc lạc đời sau, nhưng tín hữu đích thực đã được chiêm
ngưỡng, trong đó ánh sáng chói lọi của dung nhan Chúa Kitô dọi đến tín hữu và
biến đổi tín hữu theo “cùng hình ảnh đó” – Biến đổi vào doxa Chúa Kitô.
Tín hữu
được biến đổi vào hình dạng mình chiêm ngắm. Hình ảnh đó chính là Con Thiên
Chúa. Mà tín hữu là viator/ người chiêm ngắm nên việc biến đổi bắt đầu kia sẽ cứ
tiếp tục mãi, để đạt thấu ngày kia điều nói đến trong 1Yn 3:2 – Khi điều ấy đã
tỏ, thì ta sẽ được giống như Người, vì Người thế nào, ta sẽ được thấy như vậy.
Đoạn 4:1-6 - CÓ
THỂ NỐI LIỀN VỚI 3:6
Sau những
lời giải thích đối chọi Tin Mừng - Giao Ước củ.
Tông đồ
đứng trước trách nhiệm Thiên Chúa bởi nhân từ thương xót trao cho thì phải đứng
vững, không nhụt chí trước những đau khổ và thử thách.
Câu 2: Sự
thật Tin Mừng.
Bày giải
ra thế nào thì cách xử thế của Tông đồ cũng bày ra trước mặt mọi người. Cho
nên, những công kích, hoài nghi người ta đã gieo rắc trong Giáo hội Corinthô để
hạ giá công việc của ngài đều mất cả hiệu lực. Còn địch thủ với những hành động
ám muội của họ không thể nào giữ thế được trước ánh sáng.
Trước
những dị nghị về hạnh kiểm của mình, thánh Phaolô nói mình an tâm mà nại vào uy
tín của lương tâm ngay thẳng của bất cứ ai. Người không thành kiến, ắt không
thể luột được mãnh lực của lời giảng thuần khiết của Tông đồ, hằng hoạt động
không sợ sệt trước mặt Thiên Chúa, và hằng đứng trước sự hạch hỏi của Thiên
Chúa.
Câu 3-4:
Giả như Tin Mừng Phaolô rao giảng có ẩn khuất (mù tối, không hiểu được).
Sự đó
không do chính sự thật Phaolô rao giảng,
nhưng là do sự mù quáng của những kẻ thanh trách đó. Đâu thần của đời nầy thao
túng được, ở đó người ta đóng lòng của mình lại cho ơn Thiên Chúa và hư đi, và
sự thật Tin Mừng không thể lãnh hội được.
Một bí
nhiệm là ý định cứu rỗi của Thiên Chúa nơi những kẻ được cứu rỗi lại bị chống
cự kịch liệt. Điều đó làm cho lòng tin nhận ra một mãnh lực hắc ám – Mãnh lực
Satan thống trị trên đời nầy. Đâu mãnh lực mù quáng của ma quỷ thống
trị, thì ánh sáng của Tin Mừng (tức lời rao giảng đem đến ánh sáng cho người
ta) sẽ không thể xuyên qua được. Tin Mừng đó nói ra vinh quang của Chúa Kitô,
và một trật nói đến cả vinh quang của ta nữa. Điều chúng ta biết được về Thiên
Chúa siêu vượt quá tầm sức của ta, chính do bởi mặc khải nơi Chúa Kitô. Trong
Chúa Kitô, một hào quang rực rỡ đã chói lên, đã được tỏ bày ra : Chúa Kitô là
hình ảnh Thiên Chúa. Chúa Kitô là tất cả nội dung lời rao giảng.
Câu 4 có
hai điểm đáng lưu ý :
- Satan được gọi là thần của đời tạm nầy. Đời
tạm nầy đối chiếu với Thời sẽ đến. Đời nầy – tức là thời
hiện tại – thời trước ngày của Đức Mêsia (Coi Ga 1:4 Col 1:13
Cv 26:18)
Satan : Yn
12:31 14:30 16:11 – được gọi là đầu mục (arkhôn :
Princeps). Ep 2:2 6:12 – cũng nói kiểu
đó – nhưng gọi Satan là thần (Theos : Deus) thì chỉ có câu nầy
trong Tân Ước. Bởi có sự gì là Nhị nguyên, các Giáo phụ đã muốn hiểu Theos
đây là Thiên Chúa đích thật, và đời tạm nầy là trần gian. Hoặc hiểu Thiên Chúa
đã làm cho lòng trí những kẻ không tin thuộc đời nầy ra mù quáng. Tuy nhiên,
không thể nào nhận những giải thích đó. Đây có một quả quyết mạnh và đáng chú ý
về hiện tình của đời tạm nầy trong nhãn giới Thánh sử.
- Chúa Kitô là hình ảnh Thiên Chúa (Eikôn)
Coi L.
Cerfaux , Le Christ dans la theologie de St Paul 324-328, 386s
TWNT II , 378-396 (Eikôn) (Von
Rad, Kittel, Kleinknecht)
Mạch lạc
tư tưởng trong 2Cor 3:18 4:4 không còn
chỉ là đối chọi với Ađam (Tín hữu được giống Thiên Chúa bởi thông chia đặc tính
của Người Thiên thai – Người Thiên thai đích thực là hình ảnh Thiên Chúa 1Cr
15:49), nhưng là chính trong đặc tính của Ngài. Chỗ nầy, đạo lý của thánh Phaolô
đụng chạm với những suy luận của đạo Do Thái về sự Khôn Ngoan, hình ảnh của
Thiên Chúa ( coi Khngoan 7:25tt).
Câu 5: Thánh
Phaolô trong cách xử thế với tín hữu.
Không coi
tín hữu như kẻ dưới làm tôi mình, phục tùng cái tự quyền của mình (nghịch lại,
coi 11:20). Trái lại, Tông đồ muốn phục vụ, nên đầy tớ, nô lệ cho Cộng đoàn.
Trong việc phục vụ Chúa và mưu ơn ích cho tín hữu, Tông đồ muốn tận hiến thân
mình đến hết sự có thể nơi mình.
Câu 6: Bởi đã được mặc khải về Vinh
quang Thiên Chúa nơi dung mạo Chúa Kitô.
Rõ ràng là
thánh Phaolô nói đến thị kiến căn bản đời ngài, trên đường Damas (Coi Cerfaux , Le chretien…337-339) – thánh
Phaolô và tư cách căn bản của các Tông đồ là thế. Được chiếu rạng bởi vinh
quang Chúa sống lại hiện ra, được soi sáng và một trật được biến đổi giống hình
ảnh Chúa Kitô, đến đỗi, mình cũng trở nên như hừng đông rạng đến cho kẻ khác.
Chức vụ Tông đồ đòi có một sự tiếp xúc gần gủi với Thiên Chúa và Chúa Kitô. Sự
tiếp xúc đó sẽ được chuyển đến tín hữu. Contemplata tradunt.
Đoạn 4:7 – 5:10 ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ.
Thư tịch :
- L.Cerfaux : L’Antinomie de la vie
apostolique (RSR 39 (1951) 221-235
: Le Chrétien… 176-186
- J.Dupont
: Sun Christô (115ss)
- RSR 44 (1956) 161-192 360-402
(A.Feuillet . La demeure céleste et la
destinée des chrétiens)
Thánh
Phaolô nói lên 2 tâm tình tương phản : Một đàng là sự bất cập của con người làm
Tông đồ, nhưng đàng khác lại có ý thức về quyền năng mãnh lực sứ vụ Tông đồ ban
cho,vai trò làm đại diện và làm dụng cụ cho Chúa Kitô.
Trước tiên
là một bức họa về sứ vụ Tông đồ. Hùng hồn và phấn khởi không kém gì những
chương đã viết trong 1Cr 4:9-13…và những khúc sau trong thư nầy (6:3-10). Sinh
hoạt Tông đồ có 2 mặt, cũng như đời của Chúa trên trần gian : Một đàng là một
cái chết kéo dài, nhờ đó mà sinh hoạt Tông đồ diễn lại và giúp vào việc hoàn
thành nơi người ta công việc của sự Thương khó thục tội. Đàng khác là sự thắng
nổi mọi khốn khó, thành công thiêng liêng, tỏ bày ra hiệu lực của ơn Cứu chuộc,
để ơn thánh và vinh quang Thiên Chúa nên tỏ rõ nơi người ta, cho đến cuộc sống
sau hết.
Đoạn 4:7-15 CHẾT VÀ SỐNG TRONG SINH HOẠT TÔNG
ĐỒ.
Đầu thư
2Cr 1:3-11, chúng ta thấy thánh Phaolô còn hồi hộp bởi vừa mới thoát một cái
nguy chí tử. Điều xãy ra đã làm ngài cảm thấy cái chết trước ngày Quang lâm
không phải là một ức thuyết suông mà thôi, mà là một điều rất có thể xãy đến,
có khi lại là chắc chắn nữa. Điều đó làm ngài suy nghĩ. Những suy nghĩ đó bây
giờ được thành hình trong những chương nầy.
Trước hết,
thánh Phaolô biết mình mang một sứ mạng cao cả, vinh hiển hơn sứ mạng của Môsê.
Điều nghịch nhiên là kho tàng (sứ mạng bởi mặc khải, hầu như một tạo thành nơi
tâm hồn Tông đồ nói trong 4:6) đó lại tàng ẩn trong một sinh hoạt đầy yếu đuối
(Bình sành – Hình ảnh về tính cách mong manh, ngụ ngôn của Esope về nồi sành,
nồi sắt, nhưng không chỉ là hình ảnh của Hy lạp, Sách thánh cũng năng dùng đến,
khởi từ Kn 2:7, và một hình ảnh ý nhị chỗ nầy : đèn của Ghideon). Sau đó, thánh
Phaolô kê ra một loạt tương phản, theo kiểu Khắc kỷ (coi Dupont : Sun Christô, 118ss) : Đời sống Tông đồ là đời sống đau
đớn, cực khổ, nhưng trong công việc lướt thắng mọi hiểm nguy. Tông đồ cũng như
kẻ khác nhận được rằng có mãnh lực siêu phàm Thiên Chúa ban cũng hoạt động nơi
mình ngài.
Vậy cũng
như Chúa chịu chết trong sự sống trần gian, Tông đồ cũng phải nên giống như
Ngài trong sự liều chết thường xuyên. Trong sự chết thân xác, vì Chúa Kitô và
sự hợp nhất với Ngài, mãnh lực toàn thắng của Chúa Kitô cũng tỏ hiện ra. Điều
đó thấy được trong sự kháng cự không gì lay chuyển được của Tông đồ trong khốn
khó. Sự thống khổ đó không vô ích : Sự chết đó là nguồn sống cho Cộng đoàn tín
hữu.
Đoạn 4:16-18.
Chiếu theo
lòng tin của ngài, thì sự sống lại (của Chúa) đã có hiệu quả, đã hoạt động nơi
ngài, nơi thân xác cũng như trong bản ngã sâu thẳm (con người bên trong). Đối
với người trí thức Hy lạp, thì giá trị chân chính của người ta dựa trên tính
cách linh tính, học vấn tri thức : Trí khôn – một mãnh của Trí
khôn đại đồng. Con người bên trong chứ không phải lực sĩ là chân nhân, lướt
thắng được những nông nổi và những chật vật bên ngoài. Thánh Phaolô đem kiểu
nhìn về con người đó có gì khả dĩ thâu nạp được để diễn tả một chiều của con
người tín hữu.
Nhưng đây,
trí khôn được chuyển qua một mãnh lực khác : Thần Khí. Con người bên trong theo
kiểu Platô, bây giờ trở nên con người trong Chúa Kitô, con người có sự sống là
Chúa Kitô (Pl 1:21). Bên ngoài vẫn sống trong xác thịt, nhưng sự thật trong sâu
thẳm là sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, con người nhờ đó Chúa Kitô tỏ
mình ra (Ga 2:20). Thay cho ý thức tự nhiên, nghĩa là trí khôn suy nghĩ về
chính mình, thì có một ý thức mới của người tín hữu, một cái bản
ngã bỏ ngỏ cho một người khác – Một bản ngã xác định bởi liên
lạc với Chúa Kitô. Đối với cái bản ngã đó thì trong khi thử thách,
cái đa đoan của mạng người trần gian, đả phá, đày đọa thân xác, con
người bên trong kia cứ thêm cường mạnh. Xác già mỗi ngày thêm để đi đến
tàn tạ, nhưng con người bên trong kia lại được hồi xuân thêm mãi, hơn nữa,
được canh tân đổi mới ngày nầy qua ngày khác.
Thiên Chúa
luôn luôn tái tạo con người đó theo hình ảnh Chúa Kitô (Co 3:10). Tín hữu mặc
lấy con người mới (co 3:10). Đó là những kiểu nói khác nhau để diễn tả cũng một
tác động siêu nhiên : Cắm chặt, cũng cố, dẫn bản ngã của con người tín hữu vào
mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa. Xét về phía con người, đó là biến cố liên tục bên
trong. Xét cho sâu hơn, đó là một sự tái tạo, công việc của Thiên Chúa. Xét về
bản tính của ân huệ nơi con người, đó là vinh quang bao trùm và thấm nhuần cả
cái bản ngã tự nhiên của người Kitô hữu.
Câu 17:
Khi đứng từ bình diện đó mà nhìn lại cuộc đời, thì mọi cay cực hiện ra quá nhẹ : Miễn là
nhận ra được hậu quả vô cùng của mọi đau khổ chịu trong hợp nhất với Chúa Kitô.
Câu 18: Nghịch
với điều mắt trần thấy. Tín hữu được sự chắc thực lạ lùng.
Đoạn 5:1-10
KẾT HỢP VỚI CHÚA YÊSU SAU KHI CHẾT.
(Bài
tiền tấu Các linh hồn lấy ở đây)
Một khúc
danh tiếng trong 2Cor. Nhiều điều khó giải. Nhưng cốt thiết, thánh Phaolô lướt
được sự bồi hồi lo âu không thể hoàn tất công việc của mình, nhờ sự đành lòng
nhận cả hai giả thiết : Tiếp tục hoạt động nơi trần gian hay là được hội ngộ
bên Chúa.
Câu 1: Dẫu
con người bên ngoài tan nát.
Dẫu con
người bên ngoài tan nát với trăm nổi chiết ma, nhưng Tông đồ (tín hữu) chỉ nhắm
đến điều không trông thấy, những sự hằng có đã dọn sẵn. Vì biết (dĩ nhiên là
bởi tin 4:14 rằng cái nhà / lều dưới đất (cái thân xác trần gian mong manh và
tạm bợ nầy) có bị đập phá đi, thì có sẵn một lâu đài do tự Thiên Chúa – Lâu đài
ở trên trời – không do tay phàm làm ra : Akheiropoiètos. Tiếng Kheiropoètos
/ χειροποιητος / được làm bằng tay - được dùng để nói đến các đền thờ,
LXX dùng để chỉ các tượng thần. Còn Akheiropoiètos / αχειροποίητος
- được dùng để chỉ thực tại thiên thai, cánh chung, do Thiên Chúa dựng nên.
Trong Tân Ước, tiếng nầy làm nhớ đến Mc 14:58 – một lời mà Yn 2:14 đã hiểu về
Mình Chúa Kitô : Đền thờ Cánh chung. Bởi đó, tiếng có thể hướng ý tưởng đến Lâu
đài do tự Thiên Chúa, ở trên trời, chính là thân xác Chúa Kitô sống lại.(Coi RSR 44, 361ss).
Còn một
tiếng lạ ở chỗ nầy nữa là Dưới đất (epigeios). Tiếng nầy gợi
đến 1Cor 15:47-48 phản đề 2 Ađam (Coi RSR 44, 370ss).
Vậy 2Cor
5:1 gợi đến đạo lý Chúa Kitô, Đền thờ Cánh chung. Chúa Kitô Ađam mới, người bởi
trời : Chúa Kitô sống lại và vinh hiển, căn cứ, nền tảng và là nguyên nhân cho
sự sống lại của tín hữu.
Câu 2:
Bắt đầu bằng gar (enim).
Tức là một
kiểu dẫn chứng : Vì trong một thân phận như thế, trong cái lều mong manh, ta
rên lên (đau đớn bởi một ước mong không được thỏa nguyện – coi Rm 8:22t – bởi
ước ao mong – ước ao một cái gì khiếm diện).
Mặc trùm
ngay lấy :
Tiếng khác
thường để chỉ áo gì mặc trùm lên cái áo khác. Tiếng nầy gợi đến đạo lý 1Cor
50-56 – về hai cách mặc lấy hình ảnh Ađam bởi trời :
- Những kẻ đã chết sẽ sống lại. (bất hoại).
- Những kẻ còn sống vào tận thế sẽ được
biến đổi trong chốc lát.
Và câu 1Cor15:53t – Đồ mục nát mặc lấy sự bất
hoại, cái thây chết mặc lấy trường sinh bất tử:
Đồ mục nát, cái thây chết có thể chỉ chính xác đã chết, nhưng dễ hiểu
hơn trong mạch lạc là những người còn sống đó, những kẻ không bị lột
trần (chỉ phận của hồn lìa khỏi xác) nhưng vẫn mang thân xác mà bỗng
lại được mặc trùm lên ngay tính của xác sống lại – Trường sinh bất tử.
Câu 3: Như
thế thì câu 3 đã nên dễ hiểu.
Một khi ta
đã mặc lấy đặc tính của xác phục sinh, sự trường sinh bất tử, phản ảnh của xác
sống lại của Ađam bởi trời, thì mọi sự thuộc mục nát thế gian nơi ta được tan
biến đi bởi sự sống ban cho ta. Bấy giờ, tất nhiên ta chẳng còn phải sợ gì nữa
số phận bị lột trần (thân phận của xác chết trong mồ và hồn lìa khỏi xác).
(Coi Osty)
Câu 4: Cũng
song hành với câu 2, cũng dùng lại ngần ấy ý tưởng.
Câu 5: Cắt
nghĩa tại sao cái mong mỏi kia không phải là chuyện hão.
Cái mong
mỏi đó do Thiên Chúa ban cho ta. Thiên Chúa đã khiến ta có khuynh hướng được
thấy cái mong manh hay chết nơi ta được
biến vào trong sự sống. Lúc nào ? Một điều rất tương đối. Và sau đó còn một lý
khác nơi lòng tín hữu : Ta đã được bảo chứng của Thần Khí (bảo chứng tức là
Thần Khí), tức là nguồn mạch ban sự sống Thiên Chúa.
Câu 6: Một
khía cạnh mới với câu 6 nầy.
Làm sao
tín hữu chẳng những không sợ chết phần xác mà lại còn ao ước nữa. Ý tưởng cũng
được diễn trong hai câu đi song song với nhau : 6 /8 (Cũng như trên kia, 2 song
hành với 4).
Vậy :
Nghĩa là
kết luận bởi được bảo chứng thần khí, bảo đảm cho sự sống lại vinh hiển, Tông đồ
được phấn chấn : Can đảm không nao núng (trong khốn quẫn và nhất là đứng trước
sự chết) bởi biết rằng cư trú (có nơi nương ngụ ở chốn quê
hương mình) trong thân xác, thì tức là xuất ngoại (Ekdèmeĩn : người lên đàng
khi tha phương – hành trình, hay đày ải) đối với Chúa. Sinh sống trong thân xác
hay chết là một kiểu sinh sống khiếm khuyết đối với sự sống đã được trong Chúa
Kitô.
Câu 7: Cho
lý do.
Sống trong
Chúa Kitô trong lòng tin mà thôi không sao sánh bì được với sống trong hưởng
kiến (như 1Cor 13:12).
Câu 8: Lấy
lại ý tưởng trong câu 6.
Bây giờ Tông
đồ thà xuất ngoại đối với thân xác để cư trú bên Chúa, còn hơn
mọi giả thiết khác. Chỗ nầy thánh Phaolô giả thiết rằng sau khi chết tín hữu
được hưởng sự có mặt của Chúa…một cách nào đó ngay trước khi sống lại về thân
xác.
(Dupont, L. Cerfaux nhấn vào ảnh hưởng Hy
lạp, nhưng phải nhớ rằng, trong thế giới Do Thái cũng có gì tương tự, do bởi
ảnh hưởng bên ngoài. A. Feuillet – RSR 44 , 388ss – R. de Langhe : Đạo lý Kinh
Thánh)
Câu 9 : Kết
luận thiết thực.
Cho dẫu
ước ao được ở bên Chúa, thánh Phaolo hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa, không có
tham vọng nào khác là làm đẹp lòng Chúa.
Chúng tôi
ở lại, ra đi.
Có thể
hiểu về cũng một người theo 2 giả thiết cư trú và xuất ngoại, hay cũng có thể
hiểu về 2 hạng người. Nếu thế thì đẹp lòng Chúa đem về lúc tận thế, lúc mà
người ta phải lãnh nhận phán quyết của Thiên Chúa trên mình.
Câu 10: Câu
nầy cũng vì vậy mà có thể hiểu :
- Phán xét tận thế (J. Dupont,
Lyonnet)
- Phán xét riêng (Allo,
Windisch, A.Feuillet)
Thánh
Phaolô không nói rõ. Điều chắc chắn là có nói đến thưởng phạt tùy theo công
việc làm khi còn sống, và bởi đó có một sự kính sợ Chúa, bảo đảm và duy trì một
đời sống xứng đáng.
Nhưng nên
để ý : Không nhấn vào điều Làm sao được một phần thưởng lớn lao,
mà dồn cả vào lòng trông cậy phó mặc trong tay Chúa. Dẫu có những nỗi sợ hãi,
ước mong nầy khác trong lòng, tín hữu đặt tất cả niềm tín thị vào Đấng
đã ban Bảo chứng Thần Khí cho mình.
Đoạn 5:11 – 6:10 BIỆN HỘ SỨ VỤ TÔNG ĐỒ.
Đấng ký
thác cho Tông đồ sứ vụ giảng hòa và ban cho Tông đồ một địa vị vô song, nhưng
cũng đòi hỏi cả một đời tận tụy. Đoạn trước có tính cách lạc đề nào đó, bây giờ
thánh Phaolô trở lại vấn đề cốt yếu của phần I : Biện hộ cho sứ vụ Tông đồ của
Ngài.
Câu 11: Liên
lạc với khúc trước bằng ý tưởng Thiên Chúa phán xét và tiếng Lộ diện.
Có ý thức
đầy đủ về sự kính giới phải có đối với Thiên Chúa, Tông đồ hoạt động : Thuyết
phục người ta. Nhưng không phải bằng bất cứ phương kế nào (vì có ý thức kính sợ
Thiên Chúa là gì). Hoàn toàn lộ diện trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng
mong rằng trước lương tâm mỗi tín hữu cũng thế (để đừng ai nghĩ ngài có những
mục đích ám muội như có kẻ vu khống.
Câu 12 :Nói
thế hình như tự tuyên dương công trạng để giới thiệu chính mình.
Nhưng
thánh Phaolô muốn (thêm một lý do mới) tín hữu phải biết đối đáp làm sao với
những Tông đồ giả hiệu.
Câu 13: Đằng
sau lời lẽ đây thấy được một vu cáo chưa thấy nói đến :
Họ cho là
Phaolô điên tàng thể nào đó (Tiếng có thể chỉ Xuất thần, ngất trí, nhưng đây
phải hơn có nghĩa xấu như Mc 3:21, coi 2Cor 11:11) Thánh Phaolô đáp : Có thể
thế, nhưng đó là việc Thiên Chúa. Còn đối với anh em, tôi hằng xử trí tỉnh táo
trí khôn.
Câu 14-21:Diễn giải ý tưởng gồm trong câu
13 :
Gương mẫu,
lý do đời sống Tông đồ là chính Chúa Kitô.
Lòng mến
Chúa Kitô.
Có thể -
Lòng chúng tôi yêu mến Chúa Kitô (genitif
objectif) (Lietzmann, Windisch, Allo, Hering, Spicq), nhưng chiếu theo mạch
lac thì phải hơn hãy hiểu : Lòng yêu mến của Chúa Kitô đối với người ta (subjectif).
Áp bách (Sunekhei
– giữ làm một với nhau : chứa đựng, hãm hại, ép lại, câu thúc)
Agapè do đó
Chúa Kitô yêu mến và chịu chết, như thấy tỏ hiện trên thập giá gây nên một áp
lực không thể nào cưỡng lại được : Chính đó là động lực của sinh hoạt Tông đồ.
Bởi vậy
Xác tín – Một phán đoán vì hiểu biết, nhận chân.
Vậy thì
mọi người đều đã chết : Có thể hiểu
- Vậy thì mọi người phải coi như mình đã
chết cho tội, và phải sống hành động sao cho phù hợp với điều tế nhận đó.
- Nhưng phải hiểu sâu hơn đến thực hữu của
mầu nhiệm cứu chuộc chiếu theo Ga 2:19t
Rm 6:10t – Một sự chết thay, để đền thay.
Chỗ nầy
cho thấy sự liên lạc tự bên trong giữa Tín điều và Luân lý. Tín điều nền tảng :
Sự chết thập giá. Mọi người đã chết, kết luận là không ai còn được sống cho
mình, nhưng sống cho Đấng đã chết cho mình. Cái chết của Ngài trong Agapè,
nên Agapè
của Ngài nên động lực thúc đẩy hiến toàn
lực : Câu 15.
Câu 15: Sự
chết bí nhiệm kia đòi một đời sống phù hợp, tương xứng.
Đừng sống
cho mình nữa :
Sự sống
bây giờ là là sự sống thông cho, không còn phải ta là nguồn, là kẻ phải bảo tồn
duy trì, nên không còn phải kiếm cách ấp ủ, tăng cường như thể chính mình làm
chủ. Bởi đó, không còn tìm ích kỷ, thõa mãn ước muốn riêng tư, nhưng cho Ngài.
Đó là tác
động Agape nơi ta :
Chết cho
tự ái (vì quý cái bản ngã của mình) và những hậu quả bởi đó (tội lỗi), sống cho
kẻ
khác đã nên cái mình sâu thẳm đối với tín hữu hơn là tín hữu đối với
chính mình.
Câu 16: Điều
đó nhất thiết kéo đến một đời sống hoàn toàn mới.
Không còn
có gì giống với sinh hoạt trong xác thịt nữa. Chúng ta hết thảy, từ khi thời
mới khai mạc, đã chết cho mọi sự thuộc ngoài mặt (câu 12). Bởi đó, trong
đối xử với người ta, tín hữu không lấy xác thịt (lý lẽ căn cứ vào tự nhiên
người ta mà thôi) làm tiêu chuẩn. Ngay cả liên lạc người ta và chính Chúa Kitô
cũng thế. Cực đoan có thể nói (nói cùng ra thì) cả những kẻ đã biết Ngài cách
đó, đã có liên lạc hay quen biết nào với Ngài theo kiểu xác thịt, ngoài mặt (như
câu 12 trên), thì bây giờ đây, họ cũng như bất cứ ai khác giữa hàng tín hữu
(đến cả các Tông đồ cũng thế), không còn biết Chúa Kitô theo cách đó nữa.
* Biết ở
đây không phải là cái biết theo trần gian. Biết đây là giới đức tin. Chỉ có Đức
Tin mới có autorité trong Hội Thánh. Vì thế nguy hiểm ! ( Các ghi chú thêm bên
ngoài tài liệu chính thức)
Thư tịch :
-
Allo, 2Cor , 179-182
(Excursus XI : Ce qui signifie ne plus connaitre le Christ selon la
chair).
- J.Dupont,
Gnosis , 180-186 Note : Avoir connu le Christ selon la chair.
-
Recherches bibliques V 72-92.
J.Cambier : La connaissance charnelle et
spirituelle du Christ dans 2Cor 5:16.
-
L.Cerfaux : Le Christ dans la théologie de St Paul , 137s
Câu 17:
Khi xưa và
hiện bây giờ, có những người đặt Chúa Kitô vào một trật tự, một vũ trụ lỗi thời
(theo xác thịt) rồi theo phán đoán của Thiên Chúa, theo giai đoạn Thánh sử
Thiên Chúa đã dẫn đến. Tức là, đặt Đấng đã chết và sống lại làm điểm tựa của
tất cả tạo thành.. Bây giờ, ai ở trong Chúa Kitô (sống bằng sự sống của Đấng đã
chết và sống lại) thì không còn dính dự với vũ trụ cũ dưới quyền năng của sự
tội và sự chết nữa. Người ấy đã nên tạo thành mới (một tận thế đã đến, và một
Fiat lux mới khai mạc rồi). Thánh Phaolô dùng tiếng đáng kinh hoàng đó để nói
lên tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện nơi một kẻ tin.
Câu 18: Tất
cả sự đổi mới, vì là một việc tạo thành nên chỉ có thể do tự Thiên Chúa mà
đến. Đấng giảng hòa ta lại với
Người.
Tiếng
dùng ngoài khúc nầy còn Rm 5-10t Co 1:20-22 Ep 2:16.
Cựu Ước 2M
1:5 7:35 – và đạo Do Thái : Nói người ta
phải làm hòa cùng Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa chiếu theo sự thay đổi của ta
mà thay đổi thái độ (thịnh nộ) của Người. Ngược lại, Tân Ước : Thiên Chúa luôn
luôn là chủ thể của hành vi giảng hòa, còn người ta là kẻ
được giảng hòa. Quan niệm hàm ẩn tình trạng thù nghịch giữa Thiên Chúa
và người ta (người ta ghét Thiên Chúa Rm 8:7)
Cái tình
trạng đó phải hủy bỏ đi. Lập trường phải tái lập trong thân nghĩa. Đây cho thấy
giảng
hòa có một hiệu quả trong thực thể, chứ không phải pháp lý : Vì người được giảng hòa đã nên một
tạo thành mới. Đằng khác, người ta không hoàn toàn thụ động, chiếu theo
câu 20 sau nầy.
Câu 19: Nhãn
giới bao la hơn.
Trong Chúa
Kitô, vũ trụ được làm hòa cùng Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn kể những tội
phạm trước kia, và trong công việc của sứ giả Tin Mừng, Thiên Chúa nới rộng
việc thương xót của Người đến cả vũ trụ.
Câu 20: Họ là sứ thần Thiên Chúa sai đi
mang lời hiệu triệu của Thiên Chúa.
Để người
ta lãnh nhận lấy Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ từ Thập giá của Chúa Kitô.
Câu 21: Câu
vẫn tiếp tục, không có một từ ngữ phân chia tư tưởng :
Câu nầy
coi được như đứng song song với trước để làm như toát yếu cho lời khuyên răn
trong lúc Tông đồ Nài xin anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ bày
cho ta lòng yêu mến của Người một cách lớn lao hơn cả là khi ta còn là tội lỗi,
thì Đấng không hề biết tội, Thiên Chúa đã làm thành sự tội vì ta…
Một câu
rất danh tiếng trong thần học về việc cứu chuôc.
Thường có
những giải thích nầy :
- Sự tội (Hamartia) ở đây chỉ lễ tế
đền tội, chiếu theo nghĩa tiếng hattát trong Cựu Ước (thí dụ Tv 40:7 - hăta’âh
(peccatum)
song song với Ôlâh (Lễ toàn thiêu).
Nhưng
tiếng Hamartia trong LXX không hề dùng theo nghĩa đó. Tân Ước cũng
vậy. (Nếu trừ chỗ nầy ra).
- Sự tội – Tức cùng một nghĩa
như trong Rm 8:3 – Trong hình dung xác thịt tội lỗi, liên đới với nhân loại tội
lỗi, để chịu mọi hậu quả của tội lỗi, trừ ra chính việc tội.
- Sự tội – Như thể người tội
lỗi nhất thiên hạ. Giải thích nầy nhận thuyết ơn cứu chuộc là ở nơi việc Chúa Yêsu
lãnh nhận lấy hình phạt tương xứng với tội lỗi loài người đáng phải chịu. Trong
đó có những quả quyết nầy : Chúa Kitô là người tội lỗi đại đồng – đã bị Thiên
Chúa bỏ đến đỗi một cách nào đó đã chịu cả hình phạt poena damnationis đã nên đối tượng
cho sự thịnh nộ của Thiên Chúa.
Nhưng
những điều đó không nhận được vì ngay trước đó nói Đấng không hề biết sự tội.
Muốn lãnh nhận ý nghĩa phải nhớ đến đây là mầu nhiệm giải thích Thập giá theo
lời tiên tri Ys 52:13 53:12 và phải đặt
trong câu văn biền ngẫu Sự công chính / Sự tội.
* Giải
thích Chúa Yêsu như thể người tội lỗi nhất thiên hạ là giải thích của Thệ phản
trước tiên – Thí dụ Luther, Calvin. Sau đó, những nhà diễn thuyết Công giáo
cũng lợi dụng suy nghĩ trên như Bossuet, Bourdalorie. Không đúng hẳn ! Cf Art “Expiration” trong Supplement de Dict.
Biblique. (Các ghi chú thêm bên ngoài tài liệu chính thức).
Sự công
chính của Thiên Chúa:
Theo cũng
một nghĩa như Rm 1:17 3:5 3:21-26
10:3 – Không phải là phẩm tính của người ta, nhưng trước tiên là hoạt
động đem ơn cứu thoát đến cho người ta.
Sự tội
(Hamartia) :
Trong
thánh Phaolô có tính cách bao quát chứ không chỉ là một hành vi phạm tội. Sự
tội : Năng lực do đó người ta chống đối với Thiên Chúa, và tách khỏi Thiên
Chúa.
Người ta
được trở thành sự công chính của Thiên Chúa :
Không đồng
nghĩa với người ta thành những người công chính của Thiên Chúa, nhưng là người
ta nên chỗ mà sự công chính của Thiên Chúa được tỏ hiện. Tức là những kẻ chịu
lấy nơi mình những hậu quả phúc hậu của hoạt động cứu thoát của Thiên Chúa. Nếu
thế thì Thiên Chúa đã làm thành sự tội cũng phải hiểu đối chiếu lại là Chúa
Yesu phải chịu lấy nơi mình Ngài những hậu quả khốc hại của năng lực hắc ám
kia. Ngài là chỗ mà năng lực sự tội thi thố ra tất cả cái áp lực của nó.
Và nguyên
lý làm Chúa Kitô có thể nên sự tội là nguyên tắc liên đới hổ tương giữa Chúa
Kitô và người ta :
- Câu 21b – Người ta được nên sự công chính
của Thiên Chúa trong Ngài.
- Câu 21a – Chúa Kitô nên sự tội vì ta (vì
phần ích chúng ta, thay cho chúng ta. Như vậy, trong sự liên đới với ta.
Đây chúng
ta cũng có một công thức vắn gọn, quá súc tích, cũng như Chúa chính là Thần Khí.
Điều ít nhất phải nói là Chúa Kitô thực sự đã mang lấy tội lỗi của cả nhân
loại. (Ga 3:13 cũng là một châm ngôn đanh sắt như 2Cor 5:21 nầy).
Đoạn 6:1-2
Trong khi
thi hành nhiệm vụ Thiên Chúa giao cho, sứ giả Tin Mừng cộng tác vào sự cứu rỗi
của Thiên Chúa. Sống trong một Thánh sử, người Israel đạo đức muốn cho sinh
hoạt đạo đức của mình đúng theo khuôn
mẫu những dung mạo Cựu ước. Rồi những nhân vật mang trách nhiệm cũng nhìn nhận
sứ mạng của mình dưới ánh sáng của quá khứ ( David, Aharon, Pinhas, Mose). Chúa
Yêsu tả công việc của Ngài bằng những lời tiên tri. Phaolô cũng thấy sứ mạng
của mình diễn ra nơi dung mạo người tôi tớ, được Thiên Chúa kêu
gọi, và sứ vụ nhắm hẳn về phía Dân ngoại.
Những câu
nầy phải hiểu theo dung mạo Người tôi tớ. Lời Kinh Thánh trưng
ra là Ys 49:8. Thánh Phaolô đến Corinthô, mang Tin Mừng với mình là ân huệ
Thiên Chúa báo trước trong Ysaya, ân huệ chỉ ban có một lần mà thôi. Nếu ân huệ
là ơn báo trước trong lời tiên tri, thì kẻ đem đến là Người tôi tớ đã báo trước
đó nữa.
Bây giờ,
thời thực hiện lời tiên tri, tức là thời Cánh chung, viên thành vạn sự mà thời
xưa kia mong chờ một cách luống công.
Câu 3 : Tín
hữu Corinthô không thể vin vào một cớ nào tránh né lời kêu gọi khẩn thiết.
Tông đồ đã
lo sao nên vô phương trách cứ trong sứ mạng của mình, cho dẫu bao nhiêu trắc
trở muốn chặn ngang công việc.
Câu 4-10: Một
khúc danh tiếng.
Văn già
dặn, thuộc những đoạn nổi nhất.
Nhưng xét
về con người của Phaolô, đoạn nầy cho ta thấy lòng tin lớn lao và khí khái lạ
lùng của vị Tông đồ Dân ngoại.
Để xứng
đáng với chức vụ cao quý, Tông đồ đã không lùi bước trong bất cứ hoàn cảnh
thuận nghịch, giữa một thế giới nhiều cừu địch, một lòng kiên nhẫn không gì lay
chuyển được.
Câu 4b-5: Những
khó khăn nguy hiểm trong sinh hoạt Tông đồ (kê từng bộ ba)
Câu 6-7a:
Những ân
huệ bên trong chuẩn bị cho Tông đồ thi hành sứ vụ và ứng đối được với lòng thù
ghét của thế gian.
Câu 7b-8a: Trước hết nói đến khí giới công
chính.
Khí giới
của sự công chính : (Sự công chính ban cho, hay là khí giới để chống đỡ sự công
chính) – Bên đăm (bên phải – Khí giới công kích như gươm, giáo) Bên chiêu (tay
trái – Khí giới phòng vệ như thuẫn đỡ), ý nói vạn sự cụ bị, không để sơ suất.
Câu 8b-10: Chóp
đỉnh của một sinh hoạt quá nghịch lý.
Dáng vẻ và
sự thức đối nhau chan chát. Cả kinh nghiệm một đời tông đồ được đúc lại trong
một nghịch lý nẩy lửa, cho thấy một vị Tông đồ đầy hiên ngang mà không ngạo
mạn, vì cảm thấy ngay nơi công việc của mình, có cả vinh quang và vấp phạm của
Thập giá.
Đoạn 6:11 – 7:4 LỜI KÊU GỌI TÍN HỮU CORINTHÔ.
Thánh
Phaolô đã bỏ ngỏ cả tâm hồn mình ra, bây giờ cũng xin tín hữu đối với ngài cũng
kiểu đó. Họ làm sao mở lòng ra.
Đoạn nầy
có khúc 6:14 – 7:1 gây thắc mắc về lên tục ý tưởng. Bởi đó có nhiều ức thuyết :
Mạo nhập (do một người nào viết vào sau). Xác thực , nhưng đã lạc chỗ - một
khúc của một bức thư đã mai một. Mọi ức thuyết đều đứng trước một điều khó giải
: Mọi thủ bản và bản dịch đều đồng ý là khúc nầy luôn luôn đọc ở đây trong thứ
2Cor. Thành thử phải nói rằng văn của Phaolô có sao giữ vậy, vì có những hoàn
cảnh (cơ hội bên ngoài hay tâm tình) ta không thể lường được.
Coi :
L.Cerfaux La théologie de l’Eglise
suivant St Paul , 115s.
Le chrétien dans la théologie paulinienne ,
260-265 .
Câu 7:5-16 Trở lại vấn đề hành trình của Titô.
Thánh
Phaolô vui mừng đã gặp Titô tại Makêdonia, với những tin khả dĩ làm tan biến
được những gay cấn trước kia. Thư nghiêm nghị trước đã gây nên những hậu quả
tốt lành. Thánh Phaolô có thể tin vào Giáo đoàn Corinthô.
PHẦN II
2Cor 8-9 VẤN ĐỀ QUYÊN TRỢ.
Vấn đề
quyên trợ có một tầm quan trọng lớn trong sứ vụ Phaolô. Các đoạn văn nói đến :
Ga 2:10 1Cor 16:1-3 2Cor 8-9
Rm 15:25-27.
Ga 2:10 –
Sự thỏa thuận giữa các Tông đồ tại Yêrusalem và Phaolô : Phaolô hoàn toàn tự do
trong việc truyền giáo Dân ngoại. Chỉ có một điều họ xin ngài là nhớ đến những
người nghèo của Giáo hội Yêrusalem. Theo 1Cor 16:1 – Việc tổ chức quyên trợ đã
khởi sự ngay đầu thời gian gọi là hành trình truyền giáo thứ ba. Bắt đầu từ
vùng Galat. Có thể vấn đề đó đã được nói đến cho một thư cho Corinthô đã mất
(thư I), rồi thư 1Cor 16:1-3 nhắc nhủ lại. Nhưng hình như vào thời viết 2Cor,
Giáo hội Corinthô đã bỏ rơi tất cả, tâm lực để vào những cái lủng củng xãy ra.
Bây giờ,
thánh Phaolô lại đốc thúc công việc đó.Xét thói thường, trong những trắc trở
mới xãy ra, thì thực không phải là dịp. Nhưng thánh Phaolô lại lấy đó làm điều
quan trọng. Có lẽ nổi túng quẫn của Yêrusalem đã nên trầm trọng. Nhưng quyên
trợ cũng là một chứng chỉ Giáo hội Corinthô hoàn toàn nhìn nhận quyền của Phaolô,
và siết chặt liên lạc giữa hai khối tín hữu Do Thái và Dân ngoại. Cũng là một
cách xoa dịu mối cừu địch giữa ngài và Do Thái phiệt.
Bình luận
văn chương:
Hai đoạn
một phần trùng nhau. Nên có tác giả coi như một thư riêng gửi cho tín hữu khắp
vùng Akhaia. Trong đoạn 9. Hay, người ta cắt nghĩa, Phaolô lặp lại bởi có đứt
quãng trong khi đọc cho thư ký viết.
2Cor 8: Gởi
gắm việc quyên trợ và những đặc phái viên lo việc.
Nêu gương
tín hữu Makêdonia, sai Titô đôn đốc việc quyên trợ sao cho thành công lớn.
Khuyên tín hữu đại độ theo gương Chúa – Không phải để ra túng thiếu, nhưng nhắm
đến quân phân (Lý tưởng Hy lạp yêu chuộng trong tình bầu bạn). Cùng với Titô có
hai người khác.
2Cor 9 : Tín
hữu Corinthô hãy nhanh chóng làm phúc.
Để cho anh
em Makêdonia biết là Phaolô có lý mà khoe lòng sốt sắng của họ. Họ hãy cho
nhiều, đó là gieo để mà gặt lấy sau nầy. Việc trợ cấp nầy có tính cách một lễ
tế. Đằng khác gây thiện cảm và tri ân nơi anh em Yêrusalem.
2Cor 8:9 :Một
câu danh tiếng về nêu gương Chúa Kitô.
Ý tưởng
thấm nhuần lời tiên tri Ys 53. Đồng hàng với những đoạn như Rm 1:3t Pl 2:6-11 – đối chọi hai đoạn đời Chúa Yêsu :
Sinh thời và sau sống lại. 2Cor 8:9 nói thẳng đến sự tín hữu được nên giàu có,
nhưng sự giàu có đó giả thiết sự Phục sinh của Chúa, làm cho Ngài được quyền
thông chia những kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
PHẦN THỨ III : 2Cor 10-13 - BIỆN HỘ SỨ VỤ
TÔNG ĐỒ.
Coi :
Robert – Feuillet , Introd. à la Bible
II 441-443 về những ức thuyết văn
chương.
Vấn đề khó
giải là giọng điệu nghiêm khắc sau khi các đoạn trước đã cho có cảm tưởng là
mọi sự đã ổn thỏa. Nhưng đó là vấn đề tâm lý và lịch sử mà chúng ta không thể
rõ biết được nữa.
Trong các
đoạn nầy : Những kẻ được nhắm đến trong bút chiến là một số nhỏ, Phaolô đã vạch
mặt một cách tàn nhẫn (10:2 7 10 11tt 11:4
5 12t 15…) Họ là ai ? Những người tự ngoài đến (thư
giới thiệu 3:1) lấn khu vực người khác, khoe mình với công người khác (10:15t),
thợ gian giảo (11:13-15), kiêu căng và tham lam (11:20). Để khỏi bẽ mặt thì vu
Phaolô không dùng quyền Tông đồ bởi không chắc về quyền của mình (11:7-12 12:13-17). Họ khoe gốc Hipri…(11:22). Như vậy
là Do Thái phiệt, nhưng có tài khẩu thiệt (11:6).
Tông đồ
thượng đẳng (11:5 12:11)
Yoan kim
khẩu và các Giáo phụ Hy lạp, nhiều học giả : Đó là nhóm 12 (so với Ga 2:2 6 98.
Nhưng đại đa số các học giả thì đồng nhất họ là những Do Thái phiệt nói trên.
Chương biện hộ có thể chia thế nầy :
-
2Cor 10 Đáp lại những
đả kích của đối phương.
- 2Cor 11 + 12:8 Trình bày những thành tích của Phaolô.
-
11:1-21a Xin miễn xá nếu
tôi phải khoe mình.
-
11:22-12:10 Tự thuật đời Tông
đồ.
- 2Cor 12:19-13:10 Cảnh cáo nhân việc sắp đi Corinthô lần thứ 3.
11-13 Những
lời kết thúc.
No comments:
Post a Comment