Phụ lục : Các ngôn sứ
1. Các ngôn sứ đề cập trong Sách các vua.
1.1 Ngôn
sứ Êlia : Vị ngôn sứ cháy bỏng lòng yêu Thiên Chúa.
Êlia người
xứ Tisbi. Galaad. Không biết Thiên Chúa kêu gọi ông như thế nào. Ông xuất hiện
và biến đi cũng thần bí không kém Môsê. Cả hai đều được đề cập đến trong cuộc
hiển dung trên núi Tabor, rạng ngời vinh quang của cuộc thần hiện . Êlia đến
với Akhab (-853), vua Israel, tuyên sấm chống lại Akhab vì đã bất trung cùng
Thiên Chúa bằng án 3 năm không mưa và sương móc, đánh vào cuộc sống phồn vinh
mà bất nghĩa cùng Thiên Chúa. Kết thúc của bản án cũng là cuộc quyết đấu không
khoan nhượng trên núi Carmel giữa một mình Êlia, đại diện duy nhất cho Đức Chúa
và 850 tư tế của Baal và Ashera, để minh chứng cho dân chúng thấy chỉ có Thiên
Chúa là Đấng Tối Cao, ngoài Ngài ra chỉ là những ngẫu tượng. Hành động nầy của
ông đánh động dân chúng, để họ xác quyết chỉ có một Yahveh Thiên Chúa là cao cả,
để tôn thờ.
Êlia còn
được nhắc đến như ngôn sứ chống lại bất công, cường quyền, khi ông tuyên án
chết trên Akhab và hoàng hậu Jezabel, vì đã cướp đoạt vườn nho gia nghiệp của
Nabót.
Cuộc đời
ông cũng là dấu chỉ cho thấy số phận những người theo Đức Chúa phải gian nan
nguy hiểm thế nào, khi đối đầu với cường quyền. Jezabel đã cho người truy sát
Êlia và ông phải trốn chạy trong 40 ngày đêm đến núi Thiên Chúa là Khoreb. Thần
sứ Thiên Chúa được sai đến để nâng đỡ và trao ban lương thực để ông có sức đến
Núi của Thiên Chúa. Ông cũng là vị ngôn sứ đầu tiên khi xin Thiên Chúa cứu sống
người đã chết, dấu lạ bánh hóa nhiều… Cuối cuộc đời, ông đượcThiên Chúa cất đi
và người ta tin ông không chết, sẽ xuất hiện lại để chuẩn bị cho Đấng Messia
đến.
1.2 Ngôn
sứ Êlisa : Ngôn sứ huyền thoại hay làm phép lạ.
Là môn đệ kế thừa của Êlia, Êlisa được
nhiều truyền thống đề cập đến như người hay làm dấu lạ, thậm chí còn phóng đại
qua các thời kỳ khi nhắc đến hạnh tích của ông. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất
của Êlisa là công cuộc chấn hưng tôn giáo, tiếp nối tryền thống Êlia. Ông đã
ủng hộ cuộc cách mạng của Yêhu, loại bỏ các tà thần và hướng dân tôn thờ Thiên
Chúa duy nhất, Thần của cha ông họ. Trong cuộc cải cách nầy, án chết của
Jezabel đã thực hiện như sấm ngôn của Êlia. Tuy nhiên, với tính bất trung , khi
Êlisa chết, vua quan lẫn dân chúng chỉ chuộng hình thức tôn thờ Thiên Chúa vụ
hình thức bên ngoài. Khoảng 50 năm sau, các
ngôn sứ văn sỹ bắt đầu lên tiếng nói của Thiên Chúa mà Amos là người đầu
tiên trong số đó.
2. Các ngôn sứ văn sỹ.
Các ngôn
sứ tăm tiếng như Nathan, Gath, Akhiya, Êlia, Êlisa thường được nhắc đến trong
Sách các vua, Sách Samuel. Bản thân các ngài không để lại lời văn nào. Ngược
lại, đến thời Yêroboam II tại Bắc quốc Israel, phong trào các ngôn sứ văn sỹ
bắt đầu rộ lên. Amos chính là người khởi đầu.
2.1 Amos
: Ngôn sứ của sự công bằng.
Amos,
người chăn gia súc xứ Tơqua, Nam quốc Yuđa, được Yahveh sai lên Israel để thi
hành sứ vụ tại Bêthel và Samari, sau đó bị trục xuất về lại Yuđa. Ông thi hành
sứ vụ triều đại Yêroboam II, 783-743, là thời đại vinh quang thịnh trị về mặt
con người. Tuy nhiên, dưới nhãn quan của một ngôn sứ, ông thấy đây là một xã
hội đầy dẫy bất công và bóc lột. Sự huy hoàng của lễ nghi che dấu sự thiếu sót
một lòng đạo đích thực, che dấu một tình trạng sa đọa, đồi trụy.
Sấm ngôn
mở đầu của Amos hạch tội các lân quốc Israel, nhưng bất ngờ lớn nhất, bị án phạt nặng nề lại là Israel. Điều nầy
cho thấy làm Dân Thiên Chúa có nghĩa mang một trách nhiệm đặc biệt chứ đâu để
hưởng đặc ân ( Am 3,2 ).
Lễ nghi
tế tự dù có linh đình long trọng không thay đổi sự thật: Thiên Chúa chí công
của vũ trụ, Ngài chuộng sự chính trực, sự thiện muôn thuở, hơn là quyền lợi của
Israel, kẻ đang rẻ rúng sự thiện. Án Thiên Chúa sẽ đến trên họ. Đâu có tội, đó
có vạ. Chỉ có thể ngăn đại họa bằng cách
chuộng sự lành, loại sự dữ.( Am 5,15 )
2.2 Hôsê
: Ngôn sứ tình thương.
Hôsê vốn
người Bắc quốc, đương thời với Amos. Ông bắt đầu sứ vụ dưới triều Yêrôboam II
và các triều vua kế tiếp. Có lẽ ông không chứng kiến sự sụp đổ của Samari năm 721.
Hôsê
nhận sứ vụ trong thảm kịch gia đình. Ông cưới 1 người vợ và bà này đã ruồng bỏ
ông để làm 1 điếm thần. Tuy nhiên ông vẫn yêu mến và nhận về lại sau khi đã thử
luyện. Kinh nghiệm đau thương nầy trở thành hình ảnh cho cách cư xử của Yahveh
với dân của Ngài. Chính Yahveh đã cưới lấy, nhưng Israel đã ăn ở bất trung,
hành xử như 1 con điếm, đã làm Yahveh phẫn nộ, ghen tức. Tuy nhiên, Yahveh vẫn
yêu thương Israel, Ngài sẽ sửa trị họ để
đưa về lại với Ngài và ban cho niềm vui hòa hợp ban đầu.
Hôsê là
người đầu tiên diễn tả mối liên hệ Yahveh và Israel trong ngôn ngữ 1 cuộc hôn
nhân. Tín thư của ông đề cập tình thương của Thiên Chúa không được dân Ngài đón
nhận. Trái lại còn bất trung, bội phản. Hôsê nhắm đến cách riêng thành phần
lãnh đạo, bất xứng với Yahveh, làm cho dân được tuyển chọn rơi vào đồng hàng
với các dân khác. Các tư tế tham lam, dốt nát đưa đất nước đến chỗ diệt vong.
Cũng như
Amos, Hôsê lên án bất công và tàn bạo. Tuy nhiên, ông chú trọng đến mặt thất trung
về tôn giáo. Yahveh không bao giờ chia sẻ người mà Ngài thương cho kẻ khác. Thế
nên, Israel không khỏi bị trừng trị. Trong cơn gian nan bị bóc lột, hạ nhục, họ
nhớ lại thời mình còn trung tín với Thiên Chúa và khẩn cầu, hối cãi, Thiên Chúa
lại đón nhận họ về cho hưởng hạnh phúc an bình.
2.3 Ysaya
: Ngôn sứ chính trực.
Ysaya
sinh khoảng -765 và nhận lãnh sứ vụ khoảng -740, loan báo sự sụp đổ của Israel
và Yuđa, hình phạt của sự bất trung. ( Is 6,1-13 ). Ông thi hành sứ vụ trong 40
năm, thời gian mà mối đe dọa từ Assur ngày mỗi trầm trọng. Sứ vụ của ông có thể
tạm chia thành 4 giai đoạn :
-
740-736:
Khởi đầu sứ vụ đến năm Akhaz lên ngôi. Giai đoạn nầy ông quan tâm đến sự đồi
trụy về mặt luân lý do cảnh thịnh vượng mang đến cho Yuđa.
-
Ysaya
chống lại nền chính trị phàm tục của Akhaz với các lân quốc, đưa đến sụp đỗ của
Israel và lệ thuộc của Yuđa vào Assur.
-
Dưới
thời Ezêkya, Ysaya mong muốn người ta đặt tin tưởng vào Thiên Chúa và khước từ
mọi liên minh quân sự.
-
Ysaya
xuất hiện giúp chống Sennakêrip của Assur.
Ysaya được
xem như một vị anh hùng của Yuđa vì tham gia tích cực vào các vấn đề quốc gia.
Ông cũng là thi sĩ có biệt tài. Ông luôn mang ấn tượng sâu đậm cảnh ông được
kêu gọi trong đền thờ và mặc khải về tính siêu việt của Thiên Chúa cũng như sự
bất xứng của con người.
Thiên
Chúa được Ysaya đề cập là Đấng Thánh, Quyền Phép, Oai Hùng, Mạnh Mẽ, là Vua hiển
trị. Đối lại, con người là thực thể nhơ uế vì tội lỗi và phải đền tội. Nguyên
nhân họ đã không công bằng trong những liên lạc xã hội cũng như chân thành
trong tế tự dâng lên Ngài. Ông là ngôn sứ của lòng tin. Trong các cuộc khủng
hoảng của dân tộc, ông đòi lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa và đó là cơ may
giải thoát duy nhất. Ông biết sự thử thách sẽ nặng nề nhưng trông cậy vào “số
sót” được dung tha, và Messia sẽ là vua của họ. Messia sẽ xuất phát từ dòng dõi
David và thiết lập trên trần gian hòa bình và công bằng, sự hiểu biết về Thiên
Chúa sẽ được lan truyền. ( Is 2,1-5; 9,1-6;28,16-17 ).
Cũng như các ngôn sứ trước, Ysaya đề cập
một Thiên Chúa hằng sống và công minh, chưởng trị lịch sử nhân loại, phán xét
và thương xót. Tương truyền ông bị vua vô đạo Mơnassê cưa chết vì chủ trương
thẳng thắn của ông.
2.4. Ysaya II : Ngôn sứ an ủi.
Các
chương 40-55 trong sách Ysaya là công trình của một ngôn sứ vô danh được mệnh
danh là Ysaya II. Ông thi hành sứ vụ tại Babylon vào những năm đầu khi Kyrô có những chiến thắng trên Babylon.
Sấm
ngôn trong giai đoạn nầy mang tính an ủi. Phán xét đã hoàn tất qua sự sụp đổ
của Yêrusalem và thời khôi phục đã gần bên. Một cuộc xuất hành mới sẽ đưa dân
trở về một Yêrusalem mới tươi đẹp hơn. Ông đề cập đến thời đã qua và thời sẽ
đến, mở đầu cho giáo lý về thời Cánh Chung.
Chính trong
giai đoạn nầy, giáo lý về độc thần được quả quyết và cho thấy tính chất hư vô
của các tà thần. Sự khôn ngoan và quan phòng vô cùng của Thiên Chúa được đề cao cũng như tính chất đại đồng về
mặt tôn giáo được đề cập lần đầu tiên và rõ ràng.
Bốn đoạn
thơ “Những bài ca của người tôi tớ” ( 42,1-49 ; 49,1-6 ; 50,4-9 ; 52,13 ; 53,12
) trình bày dung mạo người tôi tớ trọn hảo của Yahveh, quy tụ dân ThiênChúa,
ánh sáng của các dân tộc, rao giảng lòng tin đích thực, chịu chết để tẩy xóa
tội lỗi của dân và được Thiên Chúa tôn dương. Hội Thánh nhận ra nơi Chúa Yêsu
dung mạo người tôi tớ Yahveh của Ysaya
II.
2.5. Yêrêmia :
Ngôn sứ của Giao ước mới.
Yêrêmia
thuộc dòng dõi tư tế vùng quê. Ông là vị ngôn sứ được biết khá rõ ràng trong
Cựu Ước, được trình bày bằng một dung mạo cô quạnh, bi thảm trong một đất nước
suy vi gần tàn lụi. Thời Yêrêmia thực hiện sứ vụ cũng là lúc Yuđa bắt đầu khánh
tận với cuộc vây hãm, thôn tính của Nabukho Donosor, vua đế chế Babylon.
Yêrêmia
tiếp tục truyền thống các ngôn sứ, lập lại các giáo huấn căn bản thích ứng với
thời kỳ đen tối. Ông nhận định cách sáng suốt số phận Yuđa và đi đến kết luận
cuộc hỏi tội mà các ngôn sứ khác tiên báo, giờ đã đến, vô phương tránh khỏi.
Ông chứng kiến sự tàn phá xứ sở, dân chúng Yuđa bị lưu đày hết hết đoàn nầy đến
đoàn kia. Luân thường đạo nghĩa suy sụp. Án phạt Thiên Chúa kinh khủng bày
trước mặt ông.
Thế
nhưng, với mạc khải xuyên suốt của Ngôn sứ, được mệnh danh để nhổ, để lật, để
phá, để xây, ông nhận thấy khi thi hành án công minh, Thiên Chúa còn hoạt động
theo lòng lân mẫn xót thương. Một khi đã yêu thương tuyển chọn, Thiên Chúa
không bao giờ dứt hẳn tình thương yêu dân Ngài. Giao ước đã bị dân bất trung
đơn phương gạt bỏ và xóa mọi đặc ân có được trước mặt Ngài, thì nầy đây, Thiên
Chúa sẽ lập một giao ước mới, một giao ước vĩnh cữu. (Yr. 31,31-34 )
Quả
thật, Yêrêmia là ngôn sứ lớn đã có sấm
ngôn có tính chất cắm mốc lịch sử tôn giáo khi đề cập Giao ước mới. Giao ước
được ghi khắc trong tâm hồn đổi mới chứ không phải trên gỗ đá, trong lòng thành
tâm nhận lấy chứ không phải đãi bôi vụ
hình thức bên ngoài.
Yêrêmia
đề cập đến giáo huấn lòng đạo thâm sâu, cho thấy một Thiên Chúa thấu hiểu và dò
xét lòng dạ, trao trả cho mỗi người chén họ đong, tùy hành động mỗi người. Giáo
lý của ông đặt nền tảng trên lòng thành tín nội tâm, ảnh hưởng sâu rộng đến các
ngôn sứ về sau, Ezêkiel là một thí dụ.
2.6. Ezêkiel : Ngôn sứ của tái thiết.
Ezêkiel là ngôn sứ của thời lưu đày Babylon, thi hành sứ vụ vào khoản
598-582. Ông thuộc dòng dõi tư tế tại kinh thành Yêrusalem, thuộc dòng Sađốc,
chủ trì tại đền thờ.
Ông chủ
trương đến việc cải tổ cộng đoàn và nhìn
thấy một viễn kiến : Dù thế nào Israel cũng có một tương lai, tuy rằng xét theo
thực trạng thì chẳng có tí ti hy vọng gì. Lý do làm ông trông cậy không phải vì
biết nhìn thời cuộc, nhưng chính là tin vào sự trung thành bất biến của một
Thiên Chúa Giao Ước. Ông cũng như các ngôn sứ khác, đặt trọn niềm tin vào 1
Thiên Chúa trung tín, giàu lòng thương xót đối với dân Ngài đã chọn.
Ezêkiel
thấm nhuần đạo lý Yêrêmia về trách nhiệm cá nhân trong giao ước mới. Mỗi người
phải nhận trách nhiệm cá nhân hành động mình trước mặt Đấng Chí Công. Ông cho
thấy không thể canh tân một cộng đoàn mà mỗi cá nhân trong đó không thành tâm
đổi mới. Nguyên nhân của cuộc đổi mới lại là lòng thương xót của Thiên Chúa và
lòng thương xót đó kêu gọi mọi người đáp ứng lại. Ông cho thấy sự huyền nhiệm
của Thiên Chúa, ở khắp mọi nơi, nhất là trong tâm hồn mỗi một người. Trong một
chương đặc sắc Ez 37, 1-14, Ezêkiel cho thấy một cuộc phục sinh từ xương cốt của tử sỹ, dấu chỉ một cuộc tạo
thành mới nhờ Lời của Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ dẫn dắt lịch sử tiến lên mà
không lực nào cản nỗi. Lòng tin của ông để lại dấu ấn đặc biệt trên những kẻ
lưu đày, nâng đỡ họ khi chạm trán với một tương lai mịt mù của dân tộc.
Cũng như Yêrêmia, ông đề cập đến một Giao ước mới
Thiên Chúa sẽ thiết lập. Không phải để thưởng công dân trở về với Ngài, nhưng
bởi lòng nhân từ nhưng không. Thực hiện giao ước nầy là một vị Messia, nhưng vị
nầy không còn tính chất vương giả hiển vinh. Thay vào đó, Messia là một mục tử
của dân.
No comments:
Post a Comment