Thursday, 23 October 2014

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Giáo lý Dự Tòng: CÁC CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ



                                       CÁC  CHẶNG  ĐƯỜNG  LỊCH  SỬ

          (  Từ khi vào Hứa Địa đến thời các vương triều và lưu đày )

Môsê đã hoàn tất sứ mạng đưa dân Israel “ đi lên ” từ cảnh nô lệ đến ngưỡng cửa Đất Hứa. Yosuê ( chữ Yôshuê và Yêsu trong tiếng Hipri là một ) là người được ủy thác đưa dân vào đất gia nghiệp . Đám dân ông dẫn dắt ở đây chỉ là một số bộ tộc du mục và được tăng cường thêm một số phần tử trên đường lữ hành nhưng họ đã có một gia tài kinh nghiệm phong phú . Do đó , khi gặp lại các chi tộc khác vẫn lưu ngụ tại Palestin , kinh nghiệm nầy trở thành gia sản thiêng liêng của tất cả mọi người . Khi đối mặt với cư dân khác tại Canaan trong các thành phố và vùng phụ cận , họ dần dần nhận ra bản sắc và căn tính riêng của mình : Họ là Dân Riêng của Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải và ban giao ước cho họ trên núi Sinai , đã thực hiện bao kỳ công cho họ khi mang họ ra khỏi đất Ai Cập . Thế nhưng, khi tiếp xúc với cư dân bản địa, họ không thể không ngưỡng mộ nền văn minh của các dân nầy với các thành quách cung điện cho đến nghi lễ hội hè. Đây quả là thử thách ghê gớm . Các sách như Yôshuê, Thủ Lãnh, Samuel, Các Vua, không ngừng cho thấy dân Israel dễ bị lôi cuốn như thế nào trước sức hấp dẫn của nền văn minh nầy và bỏ rơi các phong tục và niềm tin của mình. Trong suốt thời kỳ các vua, Thiên Chúa đã phái các ngôn sứ không ngừng nhắc nhở dân Israel những đòi hỏi của giao ước và lòng trung thành với ĐỨC CHÚA .

Cuộc sống chung giữa đám dân thành thị và du mục hẳn gây ra nhiều cuộc xung đột , khi thua khi thắng . Dần dần, các chi tộc du mục Israel thắng thế và đặt để luật lệ của họ trên dân bản xứ . Đến thời vua Saul, dân du mục đã biến thành thị dân và cai trị xứ sở nầy. Thời David và Salomon xác định cũng cố thêm địa vị thống trị trong vùng. Thế là thiểu số năng động đã làm nên lịch sử. Điều nầy làm  chúng ta nhận ra Hội Thánh sau nầy. Thoạt đầu, Hội Thánh chỉ là một thiểu số những người tin và với sức mạnh năng động từ Thánh Thần, Nhiệm thể Đức Kitô sẽ mang lại cho nhân loại một Hứa Địa mới .

Cũng trong giai đoạn nầy, một yếu tố mới được nhấn mạnh, các ngôn sứ, được Thiên Chúa gởi đến, để tuyên lời Thiên Chúa cho dân. Truy nguyên nguồn gốc thì Môsê có thể gọi là vị ngôn sứ vĩ đại đầu tiên.Thật ra, các ngôn sứ có vai trò rất to lớn trong việc hình thành các sách Cựu Ước. Trước thời các ngôn sứ, đã có những truyền thống khẩu truyền và những biên niên ký cùng các hồ sơ. Các tài liệu nầy còn lưu lại được nhờ các tác giả đời sau thu lượm. Các sách Cựu Ước trong quy điển, đều được viết từ thời các ngôn sứ lớn về sau, nghĩa là từ thế kỷ thứ tám AJ, với những Amos, Hôsê, Mica, Ysaya. Vì lẽ đó, chính các ngôn sứ đã định đoạt cách gián tiếp hay trực tiếp đến các Kinh Thánh Cựu Ước

I . HỨA ĐỊA.

1.      Cảnh báo của Môsê.

            Dân Thiên Chúa, dân Giao ước là cụm từ chỉ dấu sự yêu thương Đức Chúa đối với dân Ngài tuyển chọn. Sự yêu mến đặc biệt nầy được miêu tả bằng hình ảnh Cha-Con, Chồng – Vợ…cách nồng nàn. Thiên Chúa trung tín, những muốn dân giao ước sống đúng phẩm giá Ngài trao tặng, qua Thập giới. Đối với Môsê, làm sao cho dân luôn trung thành với giao ước là nổi trăn trở thao thức không  nguôi. Sách Đệ nhị Luật (Thứ luật) phản ảnh mối bận tâm nầy của Môsê. Ông khuyên nhủ, cảnh cáo dân phải sống phù hợp với giao ước đã ký kết. Đức Chúa sẽ ban cho ngôn sứ để dân biết ý định của Ngài ( Dnl 18). Môsê không phải lo hảo. chúng ta cùng tìm hiểu nguyên nhân.
 
           2. Đôi nét về cư dân Canaan.

           2.1 Thần linh Canaan : Baal – Astartê.

            Dân cư trong xứ Palestine được gọi chung là dân Canaan. Nền văn minh phức tạp của Canaan có nhiều thần. Trong Cựu Ước, thần của Canaan được gọi chung là Baal chứ không chỉ riêng một vị thần nào. Đây là quan niệm của dân Sem về thiên nhiên: Mọi vật đều sống và có thần, thần giếng nước, thần cây, thần ruồi ( baal zêbul) thần mưa…Để bảo đảm cho hoa màu và vị thế của mình trong tự nhiên giới, dân Canaan muốn biểu lộ sự thân thiện với các vị thần. Mục đích chính của việc thờ phượng thần linh Canaan: cũng cố sinh lực của thiên nhiên và là giao ước của người - vạn vật. Khía cạnh nào đó là tốt, vì không khai thác quá độ môi trường. Tuy nhiên, sự thờ phượng không dừng tại đó.

            Dân bản địa Canaan hóa thần toàn vũ trụ nhưng không buộc phải thờ tất cả, họ chỉ tập trung vào một ít vị thần biểu hiện sức sống và mãnh lực. Trong Canaan, Baal thường được tạo hình bò tót. Đơn giản vì bò là con vật quan trọng nhất trong xứ. Hoạt động nông nghiệp nhờ cả vào nó. Từ đó, Baal dần biến tướng, thành mãnh lực có uy vũ như trời cao, thần hộ mệnh của thành trì cư dân sinh sống.

            Bên cạnh Baal còn có các bà Baal: Baalath. Các nữ thần nầy biểu trưng cho sản lực, chủ yếu thiên về tính dục. Cựu Ước thường đề cập đến Astartê và Asherad như là các thần biểu trưng của phì nhiêu, sinh đẻ, tính dục … Việc hôn nhân của các Baal được chính vua Canaan làm thay, là 1 phần trong nghi tiết cầu  sản lực. Sau nầy, việc hôn nhân nầy không chỉ dành cho ngày chính lễ và nhà vua, nhưng còn dành cho các vãi đền thờ, mà người ta có thể thăm viếng. Việc giao hoan với các điếm thần nơi cực thánh của đền thờ Canaan, được cho là giúp phát triển sản lực, là sự chúc lành cho người thông dự và cả xã hội. Đây là tôn giáo phồn thực.

          2.2 Văn minh bản địa Canaan

           Canaan vào thế kỷ 13 trước CN đã hình thành chế độ phong kiến, không có chính quyền trung ương. Trong mỗi thành, có một vị thủ lãnh tự xưng là vua, cùng tầng lớp quý tộc. Bên dưới là tầng lớp lê dân phức tạp: thương nhân, nông dân, thợ thủ công. Thế lực đồng tiền đã hình thành khá đậm nét, đến nỗi sau nầy khi nói đến Canaan, là có nghĩa: người buôn bán, với thành kiến xấu. Dân Israel xem đó là hành vi bịp bợm không thể chấp nhận được khi so chiếu với giao ước mà họ đã được huấn luyện.  Thành trì Canaan được xây dựng kiên cố. Quân đội được tổ chức chuyên nghiệp với  giáp binh, xe sắt ngựa chiến. Có thể nói nền văn minh ngoại đạo nầy là thử thách cho Israel, Dân giao ước, Dân Thiên Chúa.

           3. Yôshuê tiến vào Hứa địa.

            Yôshuê không phải tác giả trực tiếp của sách mang tên ông. Sách được viết dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau và là một trong những tập sách hỗn tạp nhất. Sách Yôshuê trình bày cuộc đánh chiếm trọn vẹn Đất Hứa, như công trình của mọi chi tộc  dưới quyền chỉ huy của Yôshuê. Thực ra, các chi tộc đã chiến đấu riêng lẻ để dành phần đất cho mình và thường xuyên bị thất bại. Cuộc xâm nhập Đất Hứa kéo dài trong khoản thời gian 250 năm, chứ không phải chỉ sau vài năm chinh chiến, sách các Thẩm Phán cho biết.

           Sách Yôshuê trình bày cuộc chiếm cứ Đất Hứa cách đơn giản và lý tưởng hóa, tiếp nối thiên anh hùng ca Xuất Hành. Lý tưởng vì cho thấy Thiên Chúa can thiệp cách trực tiếp và ngoạn mục để bênh vực Israel. Đơn giản vì Yôshuê được mô tả như 1 nhân vật xuất hiện trong mọi biến cố, điều khiển mọi chiến dịch và được coi như người phân chia đất đai cho mọi chi tộc. Sách kết thúc bằng cái chết của ông sau khi đã tuyên thệ  luôn trung thành với Thiên Chúa.

            Yôshuê được xem như dung mạo báo trước của Chúa Yêsu. Yôshuê và Yêsu cùng có nghĩa: được Thiên Chúa cứu. Ông đưa dân qua sông Yorđan vào Đất Hứa, là hình ảnh bí tích thanh tẩy của Chúa Yêsu về sau: Đấng đưa nhân loại vào Nước Thiên Chúa. Cuộc đánh chiếm Canaan là hình ảnh sự phát triển của Hội Thánh Chúa Kitô. Mỗi Kitô hữu phải dùng toàn bộ sức mạnh của mình, dưới sự lãnh đạo của Chúa Yêsu, là Yôshuê mới, để được vào Đất Hứa Nước Thiên Chúa.

            4. Các thẩm phán. ( Thủ Lãnh)

            Phần dẫn nhập sách các thẩm phán trình bày sơ lược về việc các chi tộc lập cư tại Canaan. Họ hoạt động đơn lẻ và thường thất bại. Phần nầy muốn giải thích tình trạng bị đe dọa của Israel dưới thời các thẩm phán, là hình ảnh người tín hữu ngày nay, khi không đủ trung tín với Thiên Chúa.

            Phần chính sách thẩm phán đề cập đến lịch sử các thẩm phán gồm các thẩm phán lớn như : Otniel, Ehud, Baraq ( Deborad), Ghêđêon, Yeptê, Samson cùng 6 vị thẩm phán nhỏ.

           Từ thẩm phán gợi cảm tưởng: họ là những vị quan tòa xử kiện và tuyên án. Vai trò nầy, trong Dân Giao Ước, đã có hàng kỳ lão Zêqênim nơi đền thờ hoặc các tư tế đảm trách. Thẩm phán, đúng hơn là thủ lãnh, là người biết, giải thích, tuyên bố, đốc thúc việc áp dụng luật Thiên Chúa trong hoàn cảnh mới. Cùng với lề luật, họ cũng có nhiệm vụ trừng phạt những ai bất tuân giao hiếu thánh, cho dù đó là cả chi tộc, như trường hợp chi tộc Bengiamin.

            Các soạn giả sách thẩm phán đem lại cho giai đoạn này ý nghĩa tôn giáo : Con cái Israel bất trung cùng Yahveh và đã bị Ngài phó nộp cho kẻ áp bức. Khi họ tỉnh ngộ và kêu cầu Danh Ngài, Ngài đoái thương ban cho vị cứu tinh là thẩm phán. Sau đó, đân lại bội phản…Sách thẩm phán dạy con cái Israel rằng sự áp bức là hình phạt do lòng bất tín và chiến thắng là hậu quả của sự trở về cùng Thiên Chúa. Thiên Chúa, nhà sư phạm tuyệt hảo đang kiên trì nhẫn nại tôi luyện Israel để có thể xứng đáng vào Hứa Địa.

 5 . Samuel vị ngôn sứ, thẩm phán (thủ lãnh) cuối cùng.

5.1. Sách Samuel 1-2.

Sách Samuel là tác phẩm đặc biệt quan trọng trong phần sách lịch sử của Kinh Thánh. Sách theo quy điển Hipri chỉ 1 cuốn, nhưng với bản 70 thì tách làm 2. Sách ghi lại bước ngoặt đưa dân Israel từ cơ chế thẩm phán sang vương quyền với các nhân vật  như Samuel, Saul, David. Sự thay đổi thể chế sẽ làm đảo lộn xã hội, tinh thần, tình cảm con người. Sách Samuel phản ảnh cái nhìn lịch sử của Do Thái giáo về mặc khải Thiên Chúa qua chiều dài lịch sử.

Sách Samuel là chuỗi truyền thống nguyên thủy của dân gian và của các trung tâm thờ phượng xa xưa ( Silô, Mispa…) hoặc từ huyền thoại được kết tinh từ các anh hùng giải phóng dân Israel. Trình thuật gồm :

- Trình thuật về hòm bia Thiên Chúa : Được tổ thuật theo khuôn khổ các tập tục xưa của các dân tộc láng giềng. Hòm bia được coi như tượng các thần linh, theo quân ra chiến trường, bị cướp hoặc hoàn trả theo thắng bại, mang phúc họa tùy thuộc thái độ của dân Israel. Mục đích trình thuật cho thấy chỉ Đức Chúa mới là thần linh duy nhất, điều khiển mọi sự.

- Trình thuật về vua Saul : Trình bày về những ngày đầu Saul được tôn phong mang tính chất chuyện cổ dân gian. Saul đã hình thành vương triều đầu tiên trong Israel. Thật ra trước đây cũng đã có lúc người Do Thái muốn suy tôn thẩm phán Ghêđêon làm vua nhưng bị từ chối. Ông quan niệm chỉ có vị vua duy nhất là Đức Chúa. Truyền thống nói đến những trận đánh với Ammôn, Philitin, sự dũng cảm của Yonathan, con Saul. Mục đích cho thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do con người, dù họ đi ngược lại Ý Định của Ngài.

- Trình thuật về vua David : Có nhiều truyền thống đang xen nhau với mục đích cho thấy việc David thay thế Saul nắm giữ vương quyền là chính đáng.

Xuyên suốt các trình thuật là hoạt động của Samuel, được soạn tác như nhân vật chủ đạo.

5.2 Samuel, vị ngôn sứ - thẩm phán cuối

Samuel, vị thẩm phán cuối cùng đồng thời là một ngôn sứ, xuất hiện vào thời điểm mà các chi tộc Israel bị phân hóa và phải đối mặt với dân Philitin cùng các lân bang  hùng mạnh. Vì vậy, các chi tộc cảm thấy cần phải có một chính quyền hùng mạnh để đương đầu. Lý do không phải lúc nào cũng có các thủ lãnh. Các trình thuật trong sách Samuel dùng một ngữ điệu bình thản giúp chúng ta khám phá công trình Thiên Chúa thực hiện trong tâm hồn con người và hiểu con người cộng tác thế nào cho triều đại Thiên Chúa mau đến. Samuel là gạch nối, giữa giai đoạn thủ lãnh và vương quyền Israel. Ông đã xức dầu tấn phong cho cả Saul và David .

Samuel được giới thiệu như đứa con cầu tự, được thánh hiến cho Thiên Chúa trong đền thờ và được Thiên Chúa gọi đích danh. Trình thuật cho biết: ông vừa là thẩm phán, vừa là ngôn sứ đem lời Thiên Chúa đến cho tư tế Heli, cũng như đảm nhận vai trò ngôn sứ đến hết đời, thậm chí sau khi đã chết. Chính nhờ Samuel hiệu triệu dân chúng, kêu gọi họ sám hối, cầu nguyện chân thành cùng Đức Chúa, mà Israel thắng Philitin.

Samuel khổ tâm khi Israel không trọn niềm tin vào Đức Chúa, mặc dù đã được phù trợ cách nhãn tiền. Họ sợ quân thù và mong mỏi có vị vua cầm đầu để tập hợp họ, chuẩn bị chống đánh. Theo truyền thống ngôn sứ: Israel là Dân Thiên Chúa, vì thế chỉ có Đức Chúa mới là vị lãnh đạo duy nhất. Ngôn sứ, thẩm phán là người được Thiên Chúa ủy thác sứ mệnh dẫn dắt. Không ngạc nhiên khi trình thuật nói đến việc Samuel miễn cưỡng tuân mệnh xức dầu tấn phong.

Đạo lý trong sách Samuel cho thấy chỉ có Đức Chúa mới là lãnh đạo tối cao đích thực. Người được ủy thác phải tuân thủ luật của vị lãnh đạo tối cao, bằng không sẽ bị loại bỏ. Trung tín được chúc phúc, bất trung sẽ tiêu vong.


II . Thiết lâp chế độ quân chủ .

Dân du mục Do Thái trước đây, đã biến đổi thành những nông gia, sống thành từng làng hay thành thị như các cư dân khác trong vùng. Cơ cấu xã hội trong sa mạc xưa kia không còn phù hợp. Điều nầy là bình thường trong lịch sử tiến hóa của xã hội loài người. Con người biến đổi không ngừng theo các biến cố và tiến bộ kỹ thuật: Dân Israel đề nghị Samuel lập cho họ một vị vua, vì ông đã già, các con lại bất tài. Samuel xác tín: dân Israel chỉ nên lựa chọn duy nhất Thiên Chúa làm vua, bằng lòng sống trong sự quan phòng của Ngài. Là một vì vua đúng nghĩa: phải chăm lo cho dân mà không phải cho bản thân và dòng tộc. Samuel, như cảm thấy được, khi thiết lập vương triều, dân chúng sẽ bị áp bức bóc lột để cung phụng. Thế nhưng, các cảnh báo của ông không được lưu tâm. Với ông, thiết lập vương quyền là bội phản giao ước cùng Thiên Chúa. Một lần nữa Thiên Chúa chấp nhận sự tự do chọn lựa của con người. Samuel đã xức dầu tấn phong cho Saul, con ông Kit thuộc dòng tộc Benjamin .

1 . Saul  lên ngôi .

Tuy đã xức dầu tấn phong cho Saul nhưng Samuel cũng phải thông qua thủ tục bốc thăm, từ từng chi tộc, thị tộc. Cuối cùng, cũng đúng vào Saul. Ngay từ đầu, Saul cảm thấy mình cũng không có khả năng điều hành đám dân nầy. Một mặt họ muốn có một vị vua để có thể cự lại những đe dọa bên ngoài, mặt khác, họ lại không muốn khuất phục quyền bính nào. Có lẽ, thấy khó lòng nắm được đám dân như vậy nên Saul trốn biệt. Bản văn dí dỏm nói ông trốn trong đống hành lý và được lôi ra ngoài và tung hô. Thật ra Saul là người khôn khéo biết tận dụng thời cơ để cũng cố địa vị mình khi đứng ra bênh vực dân thành Giavết đánh tan bọn người Ammon . Ông cũng không cho trả thù những người trước đây khiêu khích coi thường ông. Tại Gilgal, dân chúng tôn ông làm làm một vị vua thật sự. Samuel đã giao quyền cho Saul. Tuy vậy, Samuel  đã cảnh báo: người nắm vương quyền cũng phải trung thành tuân giữ Giao ước y như thần dân. Tiếc thay, trong lịch sử cho thấy rất nhanh chóng các vua Israel tưởng mình được miễn giữ lòng trung tín đó

Khi Saul nắm được vương quyền và cai trị, ông đã tổ chức lại quân đội thành đội quân thường trực chứ không còn tình nguyện như xưa. Saul có những tướng sĩ kiêu dũng và ông liên tục động binh cùng các kẻ thù tứ phía, nào là Philitin, Ammon  Êđom , Moab, Amalek … và trận nào ông cũng thắng. Từ thắng sinh kiêu, Ông chọn con đường hành động theo quan điểm riêng của mình mà ông cho là hợp lý. Thiên Chúa đã không chọn ông nữa .

Khi tường thuật chuyện các vua, Kinh Thánh muốn chúng ta hiểu rằng: quyền bính là một trách nhiệm nặng nề quá sức người. Cầm quyền cai trị một quốc gia là cách nào đó chia sẻ quyền bính của Thiên Chúa. Người cầm quyền không biết tuân phục và lắng nghe Ngài nhiều hơn chính mình, chẳng chóng thì chầy sẽ bất cập trong trách nhiệm cao trọng được giao phó. Chúng ta không bình luận ở đây việc Saul hành động theo quan điểm của mình là đúng hay sai. Thật ra nếu ông đã làm đúng những gì lương tâm mách bảo, Thiên Chúa không trách ông. Trình thuật cũng cho thấy Samuel đâu tốt hơn: Ông cũng nghĩ mình có quyền, tự cho phép mình thất hứa và không ít lần tiếc nuối quyền lực một thời. Tường thuật nầy nhắc nhỡ chúng ta lần nữa phải biết khiêm tốn, biết tự do thực sự là thế nào. Nếu tinh ý một chút các bạn sẽ thấy các sách trong Cựu ước giải thích nguyên tội như thế nào, cho dù là vị vua hay là ngôn sứ … hễ có tí quyền là thấy biểu lộ ngay. Chính vì thế mà Đức Yêsu  nói “ Phúc cho người nghèo khó .” là vậy

2 . Ngôi báu David.

Thiên Chúa sai Samuel lần nữa lên đường đến Bethlehem, đến nhà Yessê, xức dầu tấn phong cho David, cậu con trai út của nhà nầy. Câu chuyện chọn người được xức dầu cũng ý nhị: Cái mà con người suy nghĩ và thấy hợp lý chưa hẳn là cái Thiên Chúa chọn.

2.1 . David lên ngôi .

Càng cuối đời, Saul càng mất dần khí thế: Không động viên được khối đoàn kết trong dân, cộng thêm nổi u uất khi thấy lòng người đang ngã về David. Tường thuật dùng một hình ảnh rất thương tâm để diễn tả nổi cô đơn không biết tin tưởng vào ai:  Saul đi tìm một bà đồng bóng để thăm hỏi vận mạng mình, hạng người ông từng cấm hoạt động. Thất vọng, Ông đem binh đi đánh và đã tử trận cùng các con, kể cả chàng dũng tướng Jonathan tốt bụng.

  Hình ảnh nầy gợi cho chúng ta thấy nỗi bất hạnh của Yuđa Iscariốt  sau khi phản bội. Tận cuối cuộc đời mà vẫn cứ tưởng rằng mình tự quyết định được đời  mình mà không chút lòng tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chết, vì không có lòng tin.  Do đó các anh chị sẽ không ngạc nhiên khi chịu bí tích Thanh Tẩy, vị đại diện Hội Thánh hỏi : “ Các anh chị xin gì cùng Hội Thánh ” “ Thưa con xin Đức Tin ”  “Đức Tin làm gì cho con ” “ Thưa Đức Tin cho con sự sống đời đời ”. Thế đấy, trong hoàn cảnh nào  lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa cũng dõi theo chúng ta, nhất là khi Máu Cứu Độ của Con Một Thiên Chúa đã đổ ra vì nhân loại thì Ngài không để ai mất cơ hội được sống đời đời . Tuyên xưng con xin tin là vậy .

Sau khi Saul chết, David được tôn lên làm vua làm vua xứ Yuđa, riêng môt số tướng lĩnh Saul tôn người con khác của Saul là Iboseth làm vua Israel, chia Israel thành Nam Bắc triều lần thứ nhất. Nam là Yuđa, Bắc là Israel. Cũng như bao đời nay  quyền tướng mà hơn vua thì dễ sinh loạn. Abner, người tôn Iboseth làm vua, đi lại với tỳ thiếp của Saul. Bị quở trách, ông nầy cự cãi với vua và sinh nhị tâm, kéo bè cánh theo David  Thế nhưng Abner cũng không thọ vì trước đây trong chiến tranh đôi bên, ông đã giết em của tướng Yoab nên bị ông nầy ám sát, dù David đã tha không xét đến. Sau đó, Bắc triều Israel có nội loạn, nhà vua bị ám sát. Lòng dân hướng về David, thế là ông thống nhất được đất nước .

2.2 . Vương triều David .

Đây là thời hoàng kim trong lịch sử Israel . Đất nước phát triển mọi mặt : võ bị cũng như về văn học, nông nghiệp, thương mại. David cho rước Hòm Bia Giao Ước về Yêrusalem, David nhảy mừng như một chú bé trước  Nhan Đức Chúa. Ông đã không thấy mình là cao trọng trước Tôn Nhan Thiên Chúa. Nhờ thế, ông được sử sách về sau coi như là Vua thánh David, cho dù cuộc đời khi về già của ông cũng lắm tật.  Ông cũng cảm thấy áy náy khi ở nhà bằng gỗ bá hương ( loại gỗ quý  tại Liban ) trong lúc Hòm Bia Thiên Chúa phải đặt trong lều nên muốn xây dựng một thánh điện cho Thiên Chúa. Thiên Chúa và quân vương là đối tác bất phân ly trong cai trị đất nước theo quan niệm bấy giờ. Thế nhưng, một yếu tố mà tới thời điểm nầy mới xuất hiện rõ nét lần đầu trong lịch sử Kinh Thánh: Ngôn sứ .

Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ để bày tỏ ý định Ngài từ trước, nhưng nay mới thể hiện rõ. Nathan xuất hiện trong bối cảnh đó. Không có tường thuật nào nói Thiên Chúa kêu gọi ông ra sao, nhưng thấy ông đột ngột xuất hiện như vị linh hướng cho David. Ông cho biết :  Thiên Chúa chúc lành cho ý tưởng của David và Ngài cho ông biết Ngài hiện diện trong  mọi nơi y như xưa kia mặc khải cho Môsê “ Ta là Đấng Hằng Hữu ”. Chính Ngài đã cân nhắc David từ chú bé chăn chiên ngoài đồng nên vị vua. Ngài đã chúc phúc cho dòng tộc ông và Ngài cho từ dòng dõi ông người xây dựng được Ngôi Đền Đức Chúa. Điều nầy ứng nghiệm nơi nghĩa đen, khi Salomon hoàn thành xây đền thờ Yêrusalem. Thế nhưng với biến cố lưu đày tại Babylon thời vua Nabucho, đền thờ bị phá hủy thì lời giao ước của Thiên Chúa biến đi đâu ? Thật ra, phải đến khi Đức Yêsu  Kitô đến, lời hứa của Thiên Chúa cùng David mới trở nên thành tựu trọn vẹn. Tin Mừng nhiều lần nhắc đến người ta gọi Ngài là “ Con vua David ”. Ngài chính là Đền Thờ Đức Chúa trong ý nghĩa tuyệt đối .

Cũng như David, nhiều khi chúng ta nổi hứng, muốn làm một cái gì cho Thiên Chúa, nhưng thật ra Thiên Chúa đã đi trước chúng ta. Ngài đã ban ơn cho chúng ta trước khi chúng ta có mảy may ý tưởng phụng sự Ngài. Kinh tiền tụng trong thánh lễ hướng dẫn cho chúng ta biết rằng: Khi chúc tụng Thiên Chúa, chúng ta không làm cho Danh Thánh Ngài hiển thánh hơn, nhưng nhờ đó mà chúng ta được hồng phúc của Ngài. Hơn nữa, Ngài còn không muốn chúng ta xây cho Ngài những đền đài bằng vật chất cho bằng  ngôi đền thiêng liêng nơi con người đổi mới của chúng ta. Thánh Phao lô xác quyết : “ Anh em là đền thờ của Thánh Thần ” . Đã là nơi Thiên Chúa ngự thì thân xác các anh chị cũng như chúng tôi không còn là của mình nhưng là của Thiên Chúa, đừng hạ phẩm giá đền thờ nơi mình cũng như của người khác .

Triều đại David là thời kỳ thịnh trị. Các bài thánh vịnh nói lên tình yêu của Thiên Chúa  cũng như những bài tụng ca ngợi khen Danh Thánh Ngài chủ yếu xuất hiện trong thời kỳ nầy. Ngày nay, các thánh vịnh nầy vẫn được sử dụng thường xuyên trong các nghi thức phụng vụ, đặc biệt là trong thánh lễ. Các anh chị có thể tham khảo thêm trong sách Thánh Vịnh của Cựu ước. Tương truyền rằng đa số các thánh vịnh nầy  là do vua David viết cũng như sách khôn ngoan là của vua Salomon. Chúng ta không cần thiết phải tin như thế, thường thì do nhiều tác giả viết nhưng vẫn lấy tên vua nầy vua kia cho long trọng. Vấn đề nầy cũng thường thấy trong các nền văn hóa khác .

2.3. Thân phận con người

2.3.1 Con người tội lỗi.

Nhi nữ tình trường , anh hùng khí đoản ;  anh hùng khó qua ải mỹ nhân . Kinh nghiệm ngàn đời nầy hầu như chính xác. David cũng vậy. Trong một buổi chiều đi bách bộ trên sân thượng, ông nhìn thấy một người đàn bà đẹp đang tắm. Đó là Bethsheba ,vợ của Urigia , một tướng thuộc cấp. Với quyền thế trong tay, ông không khó chiếm hữu bà trong khi chồng đang ở tại mặt trận. Phát hiện có thai, bà hốt hoảng báo tin cho David. Sau khi tính kế, David cho vời Urigia từ mặt trận về, để âm mưu xóa tan bằng chứng ngoại tình. Urigia là người nghiêm cẩn giữ luật: Trong khi mang nhiệm vụ không được gần về nhà, suốt đêm ông chỉ quanh quẩn trong của đền vua. Thấy không ổn, David đưa mật thư cho Yoab, chủ tướng của Urigia, bố trí ông nầy vào vị trí nguy hiểm nhất và không cho viện quân. Thế là sau ma chay, David  đàng hoàng đem bà Bethsheba về làm vợ  và sinh cho ông đứa con ông đã gian dâm .

Âm mưu tàn độc của David không che được mắt Đấng Chí Công: Ngôn sứ Nathan tiến đến gặp David, kể ông nghe một câu chuyện và yêu cầu David thẩm định. Câu chuyện như sau: Có hai người ở chung một thành, một người giàu có tột cùng, lắm chiên bò; một người cùng khổ chỉ có một con chiên cái nhỏ ông đã mua. Người nầy yêu mến con chiên cái mình vô cùng, cho ăn chung, ngủ chung. Có người khách kia đến thăm ông nhà giàu, tên nầy tiếc của không làm thịt bò chiên mình mà bắt con chiên của người nghèo làm thịt đãi khách. Vừa nghe tới đây, David bừng bừng nộ khí tuyên án ngay tên nhà giàu thật đáng chết. Nathan nói thẳng ngay vào mặt ông: “ Kẻ đó chính là ngài ”.Ngôn sứ Nathan quất thẳng vào mặt David. Những gì che giấu sẽ được phơi bày trước ánh sáng.

Câu chuyện nầy của David chúng ta hiểu thế nào ?

Tội của David giúp ta suy nghĩ về tình trạng yếu đuối và đồi bại mà ngay cả những người làm bạn với Thiên Chúa cũng có thể sa vào. Thiên bi tình sử nầy cho thấy Kinh Thánh là Lời Mặc Khải của Thiên Chúa cho chúng ta theo một nghĩa mạnh mẽ không che đậy sự thật cho dù đối tượng nói tới được ví như một vị vua thánh. Khi suy gẫm Kinh Thánh, chúng ta học cách nhận biết Thiên Chúa và nhận chân chính thân phận con người đang mang trong ánh sáng của Ngài. Là phàm nhân thì không khỏi có tội và cần vị Cứu Tinh do Thiên Chúa gởi đến.

Chúng tôi không nhấn mạnh chuyện Thiên Chúa ra tay trừng phạt David thế nào dưới nhãn quan các nhà soạn tác. Thiên Chúa là Đấng chậm tức giận và đầy lòng khoan nhân. Ngài không bao giờ lấy tội ác để đối chọi lại tôi ác. Không thể hình dung ra Thiên Chúa giết con của David và Bethsheba vì tội họ, càng không thể Ngài để cho con cái nhà David loạn luân và tương tàn nhau, phản loạn cùng cha. Cảnh mà các soạn tác kể lại cho chúng ta xãy ra phổ biến trong vương triều của tất cả các nền văn minh nhân loại. Từ Ai Cập đến Lưỡng hà, Ấn Độ đến Trung Hoa, châu Âu châu Á rồi châu Mỹ … những câu chuyện loạn luân tương tàn, tranh đoạt vương quyền  mà làm những chuyện thương luân bại lý vô số.  Những chuyện vừa đề cập nhan nhãn trong lịch sử nhân loại. Ngay tại Việt Nam chúng ta vào thời nhà Lý, thời được ca tụng là phong hóa đạo đức nức sử xanh, nhưng khi vua mới nằm xuống, các hoàng tử đã đem quân tranh ngôi ngay trước quan tài cha, chỉ đến khi Lê Phụng Hiểu chém chết một vị mới bảo vệ được vương quyền cho thái tử.  Có thể nói rằng : chính sự dữ từ khi con người  lựa chọn  làm bản chất, đã gây nên những chuyện đó chứ không phải Thiên Chúa. Tuy nhiên, qua các biến cố hằn sâu nầy trong lịch sử, soạn tác xem như sự công bằng của Thiên Chúa. Kinh Thánh nói lên sự thật là ngay từ khởi nguyên Thiên Chúa muốn con người sống trong sự công chính. Thế nhưng các nhân vật trong dân được tuyển chọn, không phải lúc nào cũng tốt lành hơn những người không biết Chúa, thế nhưng tội lỗi thì biết rõ không kém cạnh ai .

2.3.2 Thiên Chúa nhân lành .

Nghe ngôn sứ Nathan hạch tội, David thật lòng sám hối, nhận ra mình đã dám xúc phạm đến Đức Chúa. Ông đã thành khẩn ăn năn tội đã phạm. Thánh vịnh 50 gợi nên lòng hối hận của ông đến muôn đời. Có lẽ điều đáng khen trong thái độ vua David là ông đã khiêm tốn chấp nhận  mọi thử thách Thiên Chúa đưa đến để cảnh tỉnh ông. Thành thật mà nói, mãi rất lâu về sau khi đọc lại đoạn văn nầy, chúng tôi mới nhận thấy việc Thiên Chúa cất đứa bé con David và Bethsheba gian dâm là một hành vi thương xót,  như bằng chứng Ngài đã tha tội cho ông. Thiên Chúa đã không để đứa bé vốn sinh ra trong mầm tội, sống với ông bà như là một bằng chứng luôn nhắc nhở tội ác tầy trời ông bà vấp phạm suốt ngày trong đời. Cả bản thân đứa bé cũng sẽ không lớn lên trong cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh vì tội lỗi không do nó gây nên. Ngài đã mang nó về để hưởng lòng thương xót của Ngài . Chính điều nầy lý giải làm sao David đang ăn chay nằm đất, không ăn uống lại đứng lên sinh hoạt bình thường sau khi chú bé qua đời. Thiên Chúa đã ban cho ông bà một người con khác để kế vị, Salomon, lòng độ lượng của Ngài còn lớn hơn những gì ông đã phạm và biết sám hối .

Đây cũng chính là sứ điệp Thiên Chúa muốn nói với chúng ta ngày hôm nay khi ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta, như là bằng chứng lòng thương xót vô biên. Một khi chúng ta vấp ngã, dù tàn tệ đến đâu, nhưng biết ngước nhìn lên Thập Giá của Đức Yêsu Kitô, thì ơn Ngài tuôn đổ dư tràn để mang chúng ta về sum họp trong Ngài .

3 . Từ Salomon đến thời lưu đày Babylon .

David chiếm đươc Yêrusalem, vào khoảng năm 1000 AJ. Tiếp nối ông là Salomon, băng hà năm 931 AJ. Sau đó, vương quốc bị phân chia. Miền Bắc gọi là Israel, gồm mười chi tộc, thủ đô là Samari và mất nước năm 721 AJ. Miền Nam là Yuđa với hai chi tộc. thủ đô là Yêrusalem, mất nước vào năm 587 AJ  vào tay đế quốc Babylon thời đại đế Nabucho Donôsor. Bốn thế kỷ tiếp theo là các thế kỷ quan trọng nhất trong lịch sử thánh, là thời kỳ cao trào của các ngôn sứ được Thiên Chúa gửi đến giữa dân của Ngài. Đa phần Kinh Thánh được viết trong giai đoạn nầy. Giai đoạn lịch sử nầy được biết khá chính xác. Bốn thế kỷ nầy là chứng tích sự thoái suy dần của Israel, từ chính trị đến kinh tế, mặc dù giữa những thời kỳ cũng có đôi lúc thịnh vượng. Thế nhưng ở khía cạnh khác, trước các cơn thử thách và bách hại, lòng tin của dân Israel vào Thiên Chúa đạt tới một chiều sâu với sự tỏa sáng của các ngôn sứ lớn mà chỉ có Đức Yêsu với tư cách ngôn sứ cuối cùng mới vượt qua mà thôi. Các anh chị sau nầy nếu có dịp đọc lại toàn bộ Cựu Ước thì cũng đừng nên quên, đây là lịch sử tôn giáo nên có những biến cố lớn lại không được đề cập kỹ lưỡng mà lại nhấn mạnh những sự kiện khác mang ý nghĩa giáo huấn tôn giáo. Thành thật mà nói, rất ít và rất ít người biết tầm quan trọng giai đoạn nầy, hơn rất nhiều so với các sách Khởi Nguyên và Xuất hành. Các trích dẫn về sau  trong Tân Ước để làm sáng tỏ vai trò Đấng Mêsia, gần như xuất phát toàn bộ từ lời các ngôn sứ trong thời kỳ bốn trăm năm nầy. Rất mong và rất mong các anh chị thu xếp thời gian để tiếp cận, vì cho dù chúng tôi cố gắng lắm cũng không chuyển tải hết các điều muốn trình bày cùng các anh chị .

3.1 Triều đại Salomon .

Salomon lên ngôi vua, nhờ sự hổ trợ không nhỏ của ngôn sứ Nathan và tư tế Sađốc, sau khi loại trừ các âm mưu phế lập của các quyền thần. Salomon nổi tiếng là người cực kỳ khôn ngoan, đến nổi trước ông và sau ông, không thể có người qua măt . Trình thuật nói ông khôn ngoan do được Thiên Chúa ban khi xin cho được “ một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái ”. Một trong những điều nói lên sự khôn ngoan của ông còn lưu truyền là việc phân xử vụ án tráo con nổi tiếng trong sử sách . Các anh chị có thể xem tại 1V 3,16-27 .

 Salomon là ông vua đa tài từ văn học nghệ thuật, thi từ ca phú cho đến quản trị, từ kiến trúc xây dựng cho tới giao dịch thương mại bao gồm cả ngoại thương,  từ việc binh bị cho đến ngoại giao. Trong chuyện 1001 đêm nổi tiếng cũng có nhắc đến ông như một vị thần lớn đã đóng triện ( lá bùa ) giam ông thần trong chiếc chai mà người ngư phủ nghèo tìm thấy. Tương truyền, Sách Khôn Ngoan cũng là một trước tác của ông.

Công việc đầu tiên khi lên ngôi là xây dựng ngôi đền cho Đức Chúa. Yêrusalem, được kể như là một tuyệt tác nghệ thuật xây dựng cổ đại. Đến đây thì cũng xin nói lại với các anh chị phần đã đề cập bên trên, là Đức Chúa không cần đền thờ nhưng chính người dân cần với những lý do :

-  Bày tỏ lòng chân thành tôn vinh Thiên Chúa bằng cách xây ngôi đền thật hoành tráng, đền thờ do đó được gọi là Nhà Đức Chúa .

-  Chứng minh sự thịnh đạt của Israel, con dân cảm thấy tự hào vì có một ngôi đến kỳ vỹ không kém các ngôi đền xứ khác

           - Nổi mong mỏi được cảm nhận Thiên Chúa hiện diện giữa dân để bảo vệ họ mặc dù Ngài không ở bất kỳ ngôi đền nào tại toàn thể vũ trụ .

Thế nên khi đền thờ bị phá hủy thì không phải Ngài không hiện diện với dân nhưng là hiện diện với họ theo nghĩa sâu hơn .

3.2 . Mây đen trên vương quốc Salomon .

Trong Kinh Dịch có câu “ Vật cực tất phản ” Cuộc đời Salomon cũng thế. Ông quên khuấy lời cầu xin với Đức Chúa ngày mới lên ngôi về sự khôn ngoan của người trị dân. Cái nguyên tội nằm ngay trong con người khi có cơ hội là bùng lên ngay. Sự giàu sang phú quý làm Salomon cảm thấy kiêu hãnh. Các bà vợ ngoại giáo từ các cuộc hôn nhân vương giả của vua được mang về Israel, cùng các thầy cúng và lối tế tự ngoại giáo,  lôi kéo cả nhà vua lẫn một số dân chạy theo lối tôn thờ ngẫu tượng, vật chất mà quên đi giao ước. Cám dỗ của nhà lãnh đạo là thế. Ngôn sứ Akhigia đã theo lời sấm trao cho Yêrôbôam mười mãnh vải áo tượng trưng mười chi tộc cho ông cai trị. Nhờ công nghiệp David, dòng họ ông còn tồn tại với hai chi tộc. Một điềm báo trước sự suy vong của Israel .

III. Nam – Bắc phân khai.

1. Cuộc ly khai chính trị và tôn giáo.

Tại đại hội chuẩn bị phong vương cho thái tử tại Sikhem, Robôam, kẻ nối nghiệp Salomon đã làm chuyện dại dột khi ham thích sự xa hoa đã được hưởng từ xưa, trong lúc dân chúng chịu cảnh sưu cao thuế nặng. Ông khước từ  người dân khi họ đề nghị bớt sưu  thuế. Cuộc chính biến do Yêrôbôam cầm đầu tách hai nước mà phần lớn hơn thuộc về ông, mang tên Israel. Nhận thấy người dân vẫn tuôn về Yêrusalem để hành lễ, Yêrôbôam sợ lòng người ngã theo Yuđa nên ông cho lập một tế đàn tại Bêthel và làm ngẫu tương  Bò vàng ( hình ảnh Thiên Chúa của người Canaan) và đặt để các tư tế mình chọn. Ông buộc dân phải đến đó thờ lạy vị thần nầy thay vì Đức Chúa  Hậu quả thế nào thì các anh chị cũng có thể đoán ra, ông và dòng tộc ông không có cơ hội tồn tại trong các cuộc lật đổ sau nầy khi thực hiện chuyện tệ hại tại Bêthel .

            Chiêu bài nầy vẫn thường được các nhà cầm quyền sử dụng: Từ nước Anh đến Pháp rồi cận đại nhất là Trung Quốc và một số các quốc gia khác, nhà cầm quyền vẫn muốn chia tách Giáo Hội Công Giáo thành những giáo hội khu vực thuộc quyền lãnh đạo họ cho dễ sai khiến. Nhiều tín hữu đã bị hại vì giữ lòng trung thành với Mẹ Hội Thánh duy nhất, nhiệm thể của Đức Kitô.

2. Ngôn sứ, ngài là ai ?

Đến đây, chúng ta tạm ngắt diễn tiến để đề cập đến một yếu tố cực kỳ quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ, đó là các ngôn sứ, hay thường được đề cập là các tiên tri. Tiếng Hipri gọi các vị nầy là Nabi, tiếng gốc có nghĩa là loan báo, được gọi. Cả hai nghĩa nầy đều nói lên điều cốt yếu ngôn sứ của Israel là như thế nào.

Một ngày nào đó trong đời, ngôn sứ được Thiên Chúa kêu gọi, đặt Lời của Ngài nơi miệng họ và họ đã không thể cưỡng lại. Họ được chọn làm sứ giả của Ngài, được sai đi để nói lên ý định Thiên Chúa và để họ trở nên “ dấu chỉ ”. Họ nói tiên tri không chỉ bằng lời, bằng hành động, mà bằng cả cuộc sống của họ. Chúng ta có các bằng chứng sinh động nầy : Cuộc hôn nhân đau đớn của Hôsê là một biểu tượng, Isaya phải dạo quanh trần truồng để làm 1 dấu hiệu, cuộc đời Yêrêmia là một giáo huấn, khi Ezêkiel thi hành các mệnh lệnh kỳ lạ của Thiên chúa, ông là dấu cho nhà Israel.

Tín thư Thiên Chúa đến với ngôn sứ bằng nhiều cách, trong một thị kiến như Isaya hay Ezêkiel, Daniel… nhưng không phải là thị kiến ban đêm bởi nghe được   (không nằm mơ ).Tuy nhiên, thường xuyên hơn là bởi sự linh ứng bên trong, đôi lúc rất bất ngờ nhưng cũng đôi lúc rất thường tình. Ngược lại, ngôn sứ loan truyền tín thư cũng rất đa dạng, có thể là các vần thơ trữ tình, văn xuôi, các dụ ngôn hoăc các câu sấm, châm biếm, ai ca… phần lớn tùy thuộc tính khí, tài năng của từng vị. Điểm chung là các ngôn sứ đều có ý thức rõ rệt mình chỉ là công cụ. Xác tín rằng họ lãnh nhận lời từ Thiên Chúa, họ phải rao truyền.

          Tín thư các ngôn sứ hiếm khi đến một cá nhân như trong trường hợp Nathan và David, nhưng được ngõ cùng toàn dân. Tín thư thường liên quan đến hiện tại và tương lai. Ngôn sứ có thể thông báo  một biến cố sắp đến như dấu chỉ mà sự thể hiện chứng nhận cho lời nói và sứ vụ của họ. Họ báo trước họa tai như hình phạt lỗi lầm họ công kích và giải thoát như phần thưởng của sự trở lại. Tín thư mang tính lưỡng diện, vừa nghiêm khắc, vừa trấn an,vừa cứng cỏi đe dọa lẫn trách móc đến độ người ta coi dấu nghiêm khắc nầy như dấu chứng thực cho lời tiên tri là đích thực.

Ngôn sứ có ý thức mình tuyên sấm nhân danh Thiên Chúa, nhưng làm sao nhận ra, làm sao biết đâu là ngôn sứ thật, đâu là giả vì quả thật có nhiều ngôn sứ giả. Thánh kinh có hai tiêu chuẩn để phân biệt :

-         Lời tiên tri được ứng nghiệm ( Iz 28, 9 ; Tl 18, 22 )
-         Phù hợp giữa giáo huấn loan báo với giáo lý của đạo Yahvê ( Yr 23,22 ; Tl 13,2-6).
         
           Như thế, Thứ luật cho thấy, ngôn sứ là một thể chế, được tôn giáo chính thức nhìn nhận. Tóm lại, ngôn sứ là một người có kinh nghiệm trực tiếp về Thiên Chúa, đã lãnh nhận mặc khải về sự thánh thiện và ý định của Ngài, phê phán hiện tại và thấy trước tương lai qua ánh sáng của Thiên Chúa và được Ngài sai đi để nhắc nhở cho con người những đòi hỏi của Ngài, đưa họ về con đường vâng phục và yêu mến Ngài. Hiểu như thế thì ngôn sứ có những điểm giống với hiện tượng tôn giáo của các tôn giáo khác, nhưng vẫn là một hiện tượng riêng của Israel, là một trong những phương thức quan phòng của Thiên Chúa trong việc dẫn đắt dân được tuyển chọn.

2.1 Phong trào các ngôn sứ.

          Môsê được xem như là vị ngôn sứ hàng đầu nếu như đánh giá theo tính chất trên và nhiều người thừa hưởng ân huệ làm ngôn sứ từ ông không thiếu trong lịch sử Israel mà khởi đầu là Yôsuê, Deborath, Samuel … Đến lúc nầy thì tinh thần ngôn sứ được phát triển thành một nhóm người được thần hứng rồi biến thành một cộng đoàn “ Anh em ngôn sứ ”, sau đó, hiệp hội ngôn sứ nầy biến đi. Ngoài các cộng đoàn nầy, còn xuất hiện những nhân vật nổi bật khác như Gath, ngôn sứ của David, Nathan, Akhiya, Yêhu, đặc biệt với hai dung mạo lớn được Sách các vua dành nhiều tường thuật là Êlia và Êlisa. Các tiên tri nầy được biết đến nhờ các bản văn tường thuật việc họ can thiệp trong những giai đoạn khủng hoảng đi trước hay kèm theo những khúc ngoặt lớn của lịch sử dân tộc Israel : Mối đe dọa của Assur và sự sụp đổ của vương quốc phía Bắc dưới tên Israel, sụp đổ của vương quốc Yuđa và cuộc lưu đày, cuối lưu đày và hồi hương.

        Tín thư của các ngôn sứ trong giai đoạn nầy có tầm mức rộng lớn  nên đã được ghi chép lại và tiếp tục có ảnh hưởng. Amos được biết đến như ngôn sứ đầu tiên trong loai nầy. Ông hoạt động vào khoản bán thế kỷ VIII  AJ, tức khoản 50 năm sau khi ngôn sứ hay làm phép lạ Êlisa qua đời. Phong trào các ngôn sứ lớn kéo dài cho đến thời lưu đày, khoản 2 thế kỷ và được đánh dấu bởi các khuôn mặt lớn của Isaya, Yêrêmia, Hôsê, Mica, Nahum, Sôphônia, Habacuc, Ezêkiel…

          Với Ezêkiel tiếp nối sứ vụ của Yêrêmia thời lưu đày, văn ngôn kém phần hùng hồn nhường chổ cho các thị kiến vĩ đại nhưng phức tạp, mối quan tâm ngày mỗi lớn về thời sau hết. Mạch văn khải huyền do Ezêkiel khởi đầu nầy được trào dâng thêm lần nữa với các ngôn sứ Yôel, Zacaria rồi tràn vào sách Daniel. Đến đây, nguồn thần hứng ngôn sứ dần cạn kiệt và Zacaria 13, 2-6 cho thấy sự mai một của thể chế ngôn sứ nhưng một thời mới sẽ đến với lời của tiên tri của Yôel 3, 1-5: Thánh Linh được đổ tràn vào thời Cứu Độ. Thời mới nầy được Yoan tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của Lề Luật Củ loan báo.

2.2 Giáo lý các ngôn sứ.

           Các ngôn sứ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tôn giáo của Israel. Các ngài gìn giữ, hướng dẫn dân trong con đường của Đức Chúa một cách đích thực. Chính các ngài là Mặc Khải tiệm tiến của Yahvê. Mỗi vị đã có một vai trò riêng biệt, phương thức đóng góp riêng, cho lâu đài giáo lý nầy. Sự đóng góp phối hợp nhau theo 3 hướng chính : Độc thần, nền luân lý Cựu Ước, sự chờ đợi Ơn Cứu Độ.

2.2.1 Độc thần.

          Israel chỉ đi đến một định nghĩa Độc thần, bằng cách quả quyết về sự hiện hữu một Thiên Chúa độc nhất và loai bỏ sự hiện hữu các thần linh khác, cách dần dần. Trong một khoản thời gian dài, người ta có ý tưởng chấp nhận các dân tộc khác có thần khác nhưng họ không quan tâm vì Israel chỉ nhìn nhận có duy nhất Yahvê, quyền thế hơn các thần khác, và là Đấng chỉ chấp nhận cho Israel tôn thờ một mình Ngài. Sự biến chuyển từ ý tưởng là có thể có các thần của các dân khác, đến duy nhất có một Yahvê Thiên Chúa, là thành quả của việc rao giảng của các ngôn sứ.

         Amos trình bày Yahvê điều khiển mọi sức lực thiên nhiên, làm chủ trên con người và trên mọi biến cố. Các ngôn sứ khác, trong khi nhấn mạnh đến mối liên lạc giữa Yahvê và dân người, cũng cho thấy Ngài hướng dẫn vận mệnh của các dân tộc khác và sử dụng họ như khí cụ. Tất nhiên, Ngài cũng không lệ thuộc Israel.

        Yahvê, chủ vũ trụ, không để chỗ cho các thần khác. Các ngôn sứ quả quyết sự bất lực của các thần giả ( Êlia và cuộc thi trên núi Carmel ) và tính chất hư vô của các thần tượng. ( Hs 2,7-15 ; Yr 2, 5-13, 27-28; 5,7 ; Ys 40,10-20…) Thiên Chúa là Đấng siêu việt và các ngôn sứ đã rao giảng tính siêu việt nầy khi nói Ngài là Đấng Thánh, vượt trên con cái loài người nhưng lại rất gần bởi lòng nhân từ và yêu thương. Sự gần gủi nầy là đề tài ưa thích của Isaya, Hôsê, Yêrêmia, Ezêkiel…

2.2.2 Nền luân lý.

          Đối chọi với sự thánh thiện của Thiên Chúa là sự nhơ uế của con người và trong sự tương phản nầy mà các ngôn sứ  có ý thức sâu sắc về tội lỗi. Nên luân lý nầy đã ghi khắc trong Thập giới và rồi các tiên tri không ngừng réo gọi lên :

-         Tội lỗi làm con người xa Thiên Chúa ( Ys 59, 2 )

-         Tội lỗi phạm đến Thiên Chúa công bằng ( Amos ) với Thiên Chúa tình thương ( Hôsê ) tới Thiên Chúa thánh thiện ( Ysaya )

         Yêrêmia cho thấy toàn dân đã chìm trong tội lỗi không phương hối cải và Ysaya thấy rằng tội lỗi tất yếu kéo đến hình phạt và sự phán xét trong “ Ngày  của Yahvê ”. Đối với Yêrêmia, họa tai là dấu của lời tiên tri đích thực, tội lỗi tập thể kéo theo hình phạt tập thể. Tuy vậy, việc thưởng phạt cá nhân cũng bắt đầu được ông đề cập và được quả quyết với ngôn sứ Ezêkiel. 

         Để tránh hình phạt, phải “ Tìm kiếm Thiên Chúa”, nghĩa là thi hành các phán quyết của Ngài, đi theo đường chính trực, sống trong khiêm nhường. Điều Thiên Chúa đòi hỏi, là lòng đạo, tôn thờ bên trong. Điều nầy được Yêrêmia nêu lên như điều kiện của giao ước mới ( đề cập rõ trong Cựu Ước ). Nói chung, các ngôn sứ cực lực chống đối mọi tinh thần vụ nghi lễ hình thức bên ngoài, xa lạ với đời sống luân lý.

2.2.3 Chờ đợi Ơn Cứu Độ.

          Hình phạt không phải tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa, Đấng hoàn tất những gì Ngài đã hứa, mặc dù các bội phản của dân. Ngài sẽ tha cho một số sót thoát khỏi hiểm họa và được cứu thoát. Nhóm nầy trong mỗi giai đoạn là mầm mống cho Dân Thánh tương lai được hứa ban (Ez). Tương lai ấy là một thời thịnh trị vật chất, nhưng sự thịnh vượng nầy chỉ là phần phụ kèm theo cho việc thiết lập Nước Thiên Chúa trong bầu khí Công chính, Thánh thiện, sự trở lại bên trong và ơn tha thứ của Thiên Chúa.

        Để thiết lập và cai trị Nước của Ngài trên mặt đất, Yahvê sẽ có một người đại diện, Người sẽ được xức dầu ( Mêsia ). Mêsia thuộc dòng tộc David, xuất phát từ Bethlehem và Ngài sẽ lãnh nhận những tước hiệu cao cả nhất. Thần Khí Yahvê đậu trên Ngài. Sẽ là Emmanuel đối với Isaya,  Yahvê là đức nghĩa của chúng ta  đối với Yêrêmia, là Tôi trung của Thiên Chúa với Ysaia II, là Mục tử nhân lành…

        3. Đôi nét về lịch sử Israel ( Bắc quốc )

Mười bộ tộc Bắc và Trung phần Palestin hình thành nước Israel. Về mặt chính trị  có mối tương quan khá phức tạp với các lân quốc về binh bị cũng như giao thương. Các bộ tộc không có tính thống nhất cao nên thường có các cuộc đảo chính. Về tôn giáo, họ không có Đền Thờ trung ương, hàng tư tế chính thống cũng không. Vương quốc nầy kết thân với xứ Tyr về kinh tế và hôn nhân nên làm bành trướng  việc sùng bái các thần Baal. Các ngôn sứ đã đứng lên phản ứng kịch liệt cuộc suy thoái về mắt tôn giáo và đả kích thậm tệ các vua. Êlia và Êlisa là hai dung mạo đặc biệt thời nầy. Tiếp đến là một loạt các ngôn sứ khác như Amos, Hôsê … Chính Êlisa đã làm một cuộc cải cách mạnh mẽ về tôn giáo tại Israel bằng cách phong vương cho Yêhu . Tuy nhiên cuộc cải cách nầy không kéo dài lâu sau khi vị ngôn sứ nầy qua đời. Đến thời kỳ đế chế Assur hùng mạnh lên, Israel bị thôn tính và bị lưu dày vào năm 721 AJ
.
5.1 Ngôn sứ Êlia .

Khi nói đến thời Nam Bắc triều nầy của Israel, không thể không nhắc tới vị ngôn sứ nổi tiếng mà cho đến nay người Do Thái vẫn mong đợi ông trở lại để dọn đường cho Đức Mêsia . Ông là ai mà ngay Tin Mừng cũng đề cập đến và đặt ngang hàng với Môsê?

Akhab con Omri làm vua cai tri Israel  từ năm 874-853 AJ. Vua nầy có mối quan hệ khắng khít với xứ sở người Tyr và Siđôn mà chúng ta biết dưới tên người Phênici . Mối quan hệ nầy mang lại một thời kỳ thịnh vượng cho Israel về kinh tế cũng như quân sự. Thế nhưng, đỉnh cao danh vọng nầy lại mang đến một cuộc khủng hoảng đức tin . Căn bản của mối giao hảo nầy là cuộc hôn nhân giữa Akhab và Jezabel, ái nữ vua xứ Siđôn. Vị hoàng hậu nầy dùng ảnh hưởng của mình làm bành trướng việc sùng bái các thần Baal trong xứ sở. Bà cũng không ngần ngại truy diệt các ngôn sứ  của Đức Chúa là những người đối địch với các cộng đoàn  theo các Baal .

Thiết tưởng cũng nói thêm với các anh chị đôi chút về thứ tôn giáo làm mê hoặc lòng người thường hay đề cập trong Kinh Thánh. Các thần Baal là thần của sự sống, giới tính, mua gió và thời tiết. Dân chúng tin rằng các vị thần nắm quyền sinh sản nên họ cầu khẩn họ bằng cách quan hệ với các cô gái điếm đã được dâng hiến cho các vị thần. Trong Kinh Thánh khi nói từ làm điếm chỉ tội hoang dâm và lìa bỏ Thiên Chúa mà đi điếm đàng với các vị thần. Tôn giáo nầy không sai lầm khi ca tụng sự sống  và coi sự sống là thiêng liêng nhưng nó chỉ dừng lại tại mức độ bản năng mà thôi. Đây là thứ tôn giáo phồn thực thường bắt gặp trong những xã hội sơ khai khi con người muốn tăng dân số. Tại Việt Nam chúng ta cũng đã từng hình thành loại tôn giáo bán khai nầy như tục thờ “ Nõn Nường ”. Các anh chị có thể tham khảo trong Tín Ngưỡng Viêt Nam của cụ Toan Ánh .

Trong bối cảnh đó thì Êlia xuất hiện bênh vực mạnh mẽ lòng tin vào Đức Chúa. Ông tuyên sấm hạn hán trong toàn xứ không có mưa và sương móc cho tới khi ông ra lệnh nhân danh Đức Chúa. Lời tuyên bố mạnh mẽ đánh vào sự thịnh vượng nhưng vô đạo của Israel dưới sự cai trị của Akhab và Jezabel. Sau đó  ông bỏ đến xứ Sarepta. Tại đây ông cư ngụ trong nhà một bà góa nghèo cùng con trai bà. Êlia đã làm hai phép lạ có ý nghĩa quan trọng như một sứ điệp loan báo các dấu lạ sau nầy Đức Yêsu thực hiện với cương vị Mêsia là bánh hằng sống và nước trường sinh : Đó là phép lạ bột và dầu ăn không vơi cho đến khi hết hạn hán và phép lạ hồi sinh cho con bà. Đây là dấu lạ hồi sinh đầu tiên nói trong Kinh Thánh .

Khi nạn đói kém đang hoành hành Samari thì Êlia đến gặp Akhab theo lệnh Đức Chúa. Akhab mắng ông là người mang họa cho xứ sở nhưng Êlia cho biết chính nhà vua đã bội ước cùng Đức Chúa nên mới gây ra họa hoạn khôn lường. Để minh định Đức Chúa là Đấng Tối Cao, ông đưa ra cuộc thách đố giữa ông và  tư tế của các thần Baal tại núi Carmel, tổ chức một cuộc tế lễ cho thần mình tôn thờ. Lửa toàn thiêu sẽ quyết định ai là chân thần  ai là tà thần để dân Israel chọn lựa. Quyết không để dân  “khập khiễng ” không rõ ràng . Hy lễ trên núi Carmel là một trong các lần tỏ hiện vĩ đại của Thiên Chúa trong Cựu Ước làm thức tỉnh cả dân tộc đang thờ ơ lãnh đạm . Toàn đân tụ họp tại Carmel theo lời gọi. Đôi bên có của lễ như nhau là một con bò. Lửa tự trời thiêu rụi của ai, thì đó là Thiên Chúa. Phía các Baal và Ashêrad, có hơn 850 tư tế đang hưởng lộc của Jezabel tham gia cuộc thách đấu. Thế nhưng kêu cầu mãi mà chẳng thấy tăm hơi dưới sự cười nhạo châm biếm của Êlia.  Thậm chí họ lấy dao tự đâm làm đổ máu mình cũng chẳng có tác dụng. Đến lượt mình, Êlia lễ vật đặt trên 12 phiến đá tượng trưng cho các chi tộc, đào đất làm mương chung quanh. Dân chúng tự tay tưới nước ướt đẫm lên lễ vật cũng như củi đốt 3 lần làm đầy mương. Lời nguyện xin cho Danh Ngài Hiển Thánh của Êlia khiến lửa ập xuống thiêu rụi của lễ cũng như toàn bộ củi đá và tiêu hết nước trong mương. Toàn dân thấy thế liền phủ phục  tung hô Đức Chúa và vùng lên thanh toán các tư tế của Baal cũng như Ashêrad, như quyết tâm từ bỏ tà thần của dân chúng.

Chúng ta hiểu ý nghĩa ngọn lửa nầy như sau : Lửa có tác dụng tàn phá , thanh lọc và biến đổi ( luyện thép chẳng hạn ) Ngọn lửa tại núi Carmel làm biến đổi dân Israel ngày xưa thì sau nầy Đức Yêsu nói Ngài cũng thanh tẩy và đổi mới chúng ta trong    “Thánh Thần và Lửa”.

Sau cuộc đối đầu kịch tính như vậy, Êlia phải bỏ trốn đến núi Khoreb, nơi 400 năm trước Thiên Chúa đã mặc khải cho Môsê, thoát khỏi sự truy sát của Jezabel. Tại đây, Êlia được mặc khải phải làm gì để chiến đấu cũng cố lòng tin của dân. Êlia còn đụng độ với vợ chồng Akhab và Jezabel một lần nẩy lửa nữa nhân chuyện vườn nho nhà ông Nabot. Vườn mất người chết do sự gian ác của Jezabel, Êlia tuyên phán án lệnh Thiên Chúa chó sẽ liếm máu Akhab và ăn thịt Jezabel. Sau nầy quả xãy ra như thế. Câu chuyện Êlia còn nhiều  không thể nói miên man hết. Sau khi truyền lại sứ vụ cho đồ đệ là Êlisa, Sách Thánh nói ông được mang về trời trong cơn lốc. Thật ra thì  Êlia  là vị ngôn sứ cô đơn không vương mùi thế tục nên Thiên Chúa không để ông chết như người khác tương tự như Môsê, không ai biết chết và chôn chốn nào. Cả hai ông là trụ cột của Giao Ước Cũ. Hai ông cũng có những nét tương đồng và cùng xuất hiện trong cuộc hiện dung của Đức Yêsu tai núi Tabor sau nầy. Êlia là điển hình con người “ bị nung nấu bởi lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa ” Thiên Chúa ông tôn thờ .

5.2 Ngôn sứ Êlisa và cuộc cải cách thời Yêhu .

Êlisa là môn đệ có được“Thần Khí” của Êlia, từ nầy chúng ta sẽ còn gặp lại trong Tin Mừng khi nói về Yoan Tẩy giả . Ông đã nối chí Êlia để cũng cố lòng tin cho dân. Trong trình thuật về các vua Bắc quốc, chúng ta thường thấy hay nói tới vua làm điều dữ trước mắt Thiên Chúa có nghĩa họ đã lạm dụng quyền bính, một ân sủng ban cho người lãnh đạo, quyền nầy chỉ thức sự bền vũng khi có sự trợ giúp của Thiên Chúa. Bài học David là vậy, ông thấy mình là hèn mọn trong tay Ngài nên dòng tộc của ông được thừa hưởng lòng thương lâu bền. Sau nầy được Đức Yêsu chính danh mạnh mẽ hơn khi nói người làm đầu phải phục vụ anh em. Đạo lý nầy từ trước đến nay mấy ai thực hiện ?

Êlisa xuất hiện như một người hay làm phép lạ tuy rằng một số trong đó bị truyền thống dân gian thổi phồng hay làm méo mó đi. Êlisa là một trong các ngôn sứ sống gần gũi người nghèo khổ nên các phép lạ ông thực hiện vẫn còn mang nét đặc thù dân dã, nào là làm dầu của bà góa đầy để trả nợ và sinh sống, cho con người phụ nữ Sunêm sống lại, hóa bánh ra nhiều, chữa lành cho quan của Syrie Naaman, giải độc thức ăn, bắt trọn đám quân định thanh toán ông … Nhưng quan trọng hơn cả là ông đã hậu thuẫn Yêhu làm vua Israel, tiêu diệt các thành phần bất trung từ vua quan đến tư tế các thần ngoại đạo. Hoàng hậu Jezabel vợ của Akhab cũng không thoát tội. Yêhu đã loại trừ các tôn giáo ngoại ban do Jezabel du nhập vào và làm cớ vấp phạm cho dân .

Thế nhưng, cuộc cải tổ của Êlisa không kéo dài được lâu khi mà  quyền lực làm mờ mắt các nhà lãnh đạo, đặc biệt là sau khi Êlisa qua đời .

Sau thời kỳ Êlisa, triều đại của Bắc quốc còn kéo dài thêm khoản 60 năm với một thời kỳ tương đối thịnh vượng đời Yôram II trị vì. Thế nhưng sự thịnh vượng nầy xây dựng trên sự bóc lột dân chúng. Đây chính là thời kỳ mà ngôn sứ Hôsê và Amos xuất hiện lên án tình trạng bất công tràn lan và báo trước ngày tàn của Bắc quốc Israel gần kề .

Năm 721 AJ , Samari thất thủ. Dân cư bị lưu đày đến nơi tận cùng của đế quốc Assur và các cư dân tỉnh xa khác sẽ định cư trên Samari. Đây là chính sách của đế quốc Assur nhằm di dời và pha trộn dân cư tránh nổi dậy. Từ thời điểm nầy, người Samari là dân bị pha tạp chủng tộc và tôn giáo. Dân xứ Yuđa sẽ không bao giờ còn xem họ như người anh em bình đẳng. Đến thời Đức Yêsu, người Samari vẫn là người láng giềng mà không người Do Thái nào muốn tiếp xúc do nghi kỵ .

5. Đôi nét về vương quốc Yuđa .

Nằm hẻo lánh trong một vùng núi dài khoảng 50 km và ngang 40 km, Yuđa không có thế lực về chính trị hay binh bị. Yuđa trung thành với truyền thống vương triều David, chỉ duy nhất có một lần đảo chính vào thời Athalya và vương quốc tồn tại được bốn thế kỷ. Nhờ có Đền Thờ Yêrusalem và hàng tư tế Lêvy truyền thống, các vua trị vì cũng  thuần phác nên tôn giáo tại Yuđa tương dối vũng chãi. Sách Thánh cho thấy không có tiên tri nào lên án Yuđa nặng nề như Hôsê và Amos tại phương Bắc .

Khi Bắc quốc Israel bị thôn tính, Yuđa còn tồn tại nhưng phải làm chư hầu cho đế quốc Assur. Êzêkya, một vị vua sùng đạo, cố gắng cải cách tôn giáo dưới ảnh hưởng của ngôn sứ Ysaya. Đến khoảng 705 AJ, ông vào liên minh chống Assur và Yuđa đã phải trả giá dắt cho hành vi chống đối nầy, thành quách bị triệt hạ, triều cống nặng nề . Sau đó, Yuđa đã có thêm một cuộc nổi dậy nữa nhưng may mắn là Sennakêrib của Assur bị nội loạn  giết chết nên cuộc hãm thành thất bại. Đến thời các vua kế vị là Manasê và Amôn, Yuđa buộc phải hàng phục Assur và chịu ảnh hưởng nặng nề chính trị cũng như tôn giáo .

Sau khi đạt đến cực thịnh, Assur bắt đầu suy đồi nên các chư hầu dần dành lại độc lập. Vào khoảng 605 AJ, Vua Yôsya bắt đầu cuộc cách tân tôn giáo . Đây cũng là hình thức tuyên bố độc lập với Assur. Năm 621 AJ  tuyên bố Thứ Luật làm phương châm cho công cuộc cải cách, áp dụng luật Môsê theo tinh thần các ngôn sứ. Áp dụng triệt để việc tập trung tế tự tại Yêrusalem. Công cuộc nầy được sự ủng hộ của ngôn sứ Yêrêmia. Thế nhưng, Yuđa bị lôi kéo vào cuộc chiến với Ai Cập, Yôsya tử trận. Yuđa hết rơi vào tay Ai Cập thì lọt vào túi Babylon.  Công cuộc cải cách tôn giáo bị tan thành mây khói khi tôn giáo Babylon một lần nữa xâm nhập ngay vào chính Đền Thờ Yêrusalem. Lúc nầy ngôn sứ Yêrêmia nổi lên, một mình kháng cứ với sự mê tín của dân. Yuđa ngầm dấy loạn bằng cách liên kết với Ai Cập năm 598 AJ nhưng thất bại . Babylon phát vãn vua  quan và hạng khá giả trong nước về Babylon. Lần thứ hai nổi lên, Babylon làm cỏ Yuđa năm 587 AJ. Vua Sêđêkya bị hành quyết, Đền thờ bị phá hủy, rất đông dân cư bị lưu đày tại Babylon, số khác chạy tản mát sang Ai Cập. Cùng đi với họ có Ngôn sứ Yêrêmia. Yuđa  diệt vong .

IV . Lưu đày Babylon ( 587-538 AJ )

Thời gian đầu cuộc lưu đày, dân Israel sống trong thất vọng , u uất muốn làm càn.  Tuy nhiên, với truyền thống tôn giáo soi sáng và nhất là trong họ được Đức Chúa cho xuất hiện ngôn sứ Êzêkiel chỉ dạy. Israel ngang qua kiếp nạn mà vẫn sống. Các qui chế tôn giáo củ tan rã thì tại nơi tha phương nầy, họ tổ chức lễ bái không tế tự nhưng bằng ca hát Thánh Vịnh và đọc Sách Thánh ( lúc nầy đã được chép lại một phần) Các anh chị thấy tầm quan trọng thế nào của Thánh Vịnh và Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh nơi cuộc sống thế nào .

Dân Israel trong giai đoạn nầy có dịp nhìn lại lịch sử dân tộc mình dưới ánh sáng Thứ Luật thư, sưu tầm và ghi chép lại các truyền khẩu, các lời sấm các ngôn sứ cùng các tập tục phụng vụ. Đạo Do Thái dần hình thành là một Giáo hội chứ không còn như một dân; như một tôn giáo bị chi phối bởi một cuốn sách : Kinh Thánh . Khi trà trộn với các dân khác, Israel cũng có cơ hội mở rộng tri thức và thấy vũ trụ bao la. Lần đầu xuất hiện vấn đề số phận dân ngoại trong họ .

Khoảng năm 540 AJ , Kyrô có những trận thắng liên tiếp trên các dân Tiểu Á làm cho người lưu dày phấn khởi. Một ngôn sứ vô danh nhưng được gán cho tên là Isaia II xuất hiện loan báo thời hạn lưu đày sắp chấm dứt, Sion sẽ được trùng hưng . Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là ông loan báo cho Israel biết quyền năng của Yahveh trên vũ trụ , kế đồ cứu rỗi toàn diện và giá trị thực của nổi thống khổ lưu đày. Quả thế, mùa thu 739 AJ, Kyrô ra sắc chỉ cho phép các dân bị phát vãn hồi hương, thế là hằng đoàn đứng dậy sôi nỗi về cố quốc .

V . Đế quốc Ba Tư  ( 538-332 AJ )

Sau cơn đại nạn trở về, đoàn người hồi hương cũng phải trãi qua nhiều gian nan trong mối tương quan với thiên nhiên cũng như láng giềng  tại cố quốc gồm nhiều sắc dân. Họ hồi hương theo từng đợt khác nhau và cũng rất vất vả  mới xây dựng lại được một đền thờ khiêm tốn ( 520-515 ). Mãi đến 445 AJ, Nêhêmia mới sử dụng thế lực riêng để xây dựng nên tường thành Yêrusalem .

Lòng mộ đạo của người Israel diễn ra cách đặc biệt nhiệt thành trong tế tự và đối với Đền Thờ. Các ngôn sứ trong giai đoạn nầy như Haggai, Zacaria, Malaki nâng đỡ và khích lệ lòng mộ đạo của dân.  Vào một thời gian khó xác định, có lẽ khoảng 398 AJ , đạo Do Thái được hình thành hoàn chỉnh với việc ban hành bộ Thứ Luật mới  cùng với việc san định lần cuối các truyền thống và tập tục Israel .

Cùng với việc lập quốc, các nhóm Do Thái khác không hồi hương cũng phát triển như tại Lưỡng hà, Ai Cập  và là nguồn hổ trợ cho dân tại quê nhà. Họ cũng lập thành các nhóm sinh hoạt tôn giáo và tình trạng nầy kéo dài cho đến tận thời kỳ Đế chế Hy Lạp. Có lẽ đây cũng là kinh nghiệm sống tiềm tàng  có thể lý giải phần nào nước Israel ngày nay lập quốc lại được sau gần hai ngàn năm vong quốc .

VI . Đế chế Hy Lạp ( 332-142 AJ )

Alexandre đại đế vượt cương thổ Ba Tư sau chiến thắng Issos và gần như ngay sau đó toàn đế chế Ba Tư bao gồm Palestin nằm dưới quyền cai trị của Hy Lạp. Sự va chạm giữa văn hóa Hy Lạp và Do Thái giáo chẳng chóng thì chày cũng xãy ra. Hy Lạp dựng nên một nước tại Syrie, một tại Ai Cập. Palestin nằm dưới quyền của Ptôlêmê  Ai Cập nên vẫn tương đối yên hàn giữ đạo theo luật Ezra đã ban hành .

Năm 200 AJ, vua Syrie là Antiôkhô II đánh chiếm Palestin. Một số tư tế Do Thái chuộng văn hóa Hy Lạp nên muốn thâu nhận cả thói tục Hy Lạp, trong họ có những kẻ còn tự động xin với vua Antiôkhô IV Êpiphanê là vị vua cổ súy hết mình cho văn hóa Hy Lạp, thay thế luật Ezra bằng luật quốc gia Hy Lạp. Nhà vua chấp thuận. Luật và các tục lệ Do Thái bị bãi bỏ và cấm nhặt. Ngay tại Đền Thờ Yêrusalem cũng có cả bàn thờ kính thần Zeus và cả cử hành các lễ bái tế tự ngoại giáo. Các cuộc cấm cách bách hại một cách gắt gao. Tuy cũng có người bỏ đạo nhưng không ít người cam lòng chịu chết giữ vững niềm tin .

Dưới sự điều khiển của anh em nhà Macabê, phong trào nổi dậy vừa có tính chất dành độc lập dân tộc vừa có tính chất tôn giáo gây tổn thất nặng nề cho Syrie bằng các cuộc đánh úp đồng thời với cuộc thanh lọc hàng ngũ Do Thái theo văn hóa Hy Lạp . Cuộc chiến xoay chuyển với lợi thế nghiêng về Israel khi Yônathan lên nắm quyền . Cuối cùng, đến thời Simon ( 143-134 ) thì dành được độc lập .

VII . Israel dưới thời dòng họ Hasmônê . ( 142- 63 AJ )

Simon và những người kế vị kiêm luôn quyền đạo lẫn quyền đời. Trãi qua giai đoạn mới khôi phục nên rất chú trọng việc binh bị và công việc thế tục cách quá đáng Các người thành tín ủng hộ cuộc đấu tranh chống Syrie vì tôn giáo ngày càng xa rời họ và lập thành một phong trào cổ súy nhiệt thành đối với lề luật. Họ chủ trương tách quyền đạo ra khỏi quyền đời. Tự nhóm nầy hình thành một phái riêng  lấy tên là Biệt phái. Họ xác tín niềm tin vào Sống Lại, Thiên Thần, là niềm tin phổ biến trong Israel .

Hàng tư tế quý phái thì lại theo phái Sađốc, lệ thuộc quyền hành chính trị nhưng về đạo lý thì không tin vào sự sống lại, tin các thiên thần. Chúng ta thấy nhân dạng họ khi muốn phản bác Đức Yêsu về việc sống lại bằng cách hỏi ai là vợ của bảy anh em khi sống lai trong Tin Mừng .

Cũng trong thời kỳ nầy còn có một nhóm đạo đức khác sống chung với nhau trong khó nghèo và độc thân trong nơi hoang địa. Họ chăm giữ sự trong sạch theo nghi tiết và nghiền ngẫm luật Thiên Chúa. Đó là nhóm Essênien mà kinh sách của họ còn  lưu truyền và mới được khám phá  trong năm 1947 .

Sau khi Syrie suy tàn, Đế quốc Rôma nổi lên và len lỏi vào các khu vực phương Đông. Thế nên có thể hiểu anh em nhà Macabê thành công trong cuộc chiến chống Syrie thì một cách gián tiếp lọt vào ảnh hưởng của đế chế Rôma. Sau các cuộc tranh chấp trong nội bộ anh em nhà Hasmônê  Rôma can thiệp. Năm 63 AJ, Pompeius đã  vào Yêrusalem và đến tận nơi Cực Thánh  trong đền thờ. Sau đó thì Rôma chỉ còn cho dòng dõi Hasmônê cầm quyền tôn giáo. Chính trong bối cảnh ấy mà Đức Yêsu, Đấng Mêsia của Lời Hứa xuất hiện mang lại một cục diện mới cho nhân loai.

Các bạn , các anh chị thân mến. Thế là chúng tôi đã  trình bày lượt qua lịch sử Ơn Cứu Độ. Mấy mươi thế kỷ huấn luyện và dạy dỗ của Thiên Chúa cho Dân Israel, bốn mươi sáu cuốn sách mà trình bày như thế nầy thì thật quá ư thiếu sót, quá ư giản lược. Tuy thế, chúng tôi kỳ vọng đây chỉ là khúc dạo đầu và hết sức mong muốn các anh chị, dưới tác động của Thánh Thần Thiên Chúa, đọc và tìm hiểu Kinh Thánh. Chúa Thánh Thần ban sự khôn ngoan để các anh chị cảm nhận điều Thiên Chúa nói với từng người chúng ta hôm nay trong hướng dẫn của Mẹ Hội Thánh .










No comments: