ĐÔI DÒNG DẪN
NHẬP
Các bạn , các anh chị thân mến.
Hôm nay, chúng ta có cơ hội gặp gỡ nhau ở
đây, là một ân huệ của Thiên Chúa cho dù với nguyên nhân nào. Chúng ta có một
thời gian tương đối để cùng chia sẻ với nhau những điều mà tự muôn đời Thiên
Chúa muốn nói với từng người trong chúng ta Để có được tâm tình chia sẻ đó,
chúng tôi mong các anh chị tạm thời gạt bỏ các quan niệm, nếu có, của mình để
nghe một số khái niệm mới trong cuộc hành trình chúng ta đi tìm Đấng Cứu Độ, Đấng mà chúng ta chọn làm
gia nghiệp của mình. Xin mượn hình ảnh một câu chuyện Thiền để nói về vấn đề
nầy như sau :
Có một người, tự hào hiểu biết về thiền học,
đến hỏi về Thiền với Nan-in. Thiền sư mời
anh ngồi và rót trà, trong lúc anh thao thao bất tuyệt về các kiến thức Thiền
của mình. Nan-in cũng không ngừng rót trà vào tách anh ta, dù đã tràn ra ngoài.
Thấy thế, anh ta kêu lên: “ Dừng lại, thưa ngài, tách đã đầy tràn
rồi, ngài không thấy sao ?” Nan-in cười nói với anh:
“Anh cũng thế, lòng anh đầy ắp rồi, đâu còn chỗ cho các kiến giải khác.”
Trong tâm tình như vậy, chúng tôi mời các
anh chị, chúng ta cùng tìm kiếm Chúa
Yêsu Kitô, qua Kinh Thánh. Thông thường, khi bắt đầu đọc 1 cuốn sách mới, người
ta đọc phần dẫn nhập trước, để hiểu đại ý sách đó muốn nói gì. Đọc Kinh Thánh
cũng vậy. Để không cảm thấy mình rơi vào khu rừng mà không có chỉ dẫn, các anh
chị nên đọc phần dẫn nhập trong từng sách. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy đa số
không lưu tâm đến, nên ở đây chúng tôi cố tóm lại, hy vọng phần nào anh chị có
được một khái niệm tương đối theo trình tự ( logích ). Tất nhiên, bản tóm của
bản tóm lược thì không thể nào lột tả hết cái thần, cái ý của những điều muốn
nói nên trong thâm tâm, chúng tôi rất mong các bạn bớt chút thời gian để đọc
tất cả .
1
. Chúa Yêsu đã phục sinh .
Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa mặc khải
cho con người biết vận mệnh của họ, kêu mời họ đến với sự sống. Đây không phải
là cuốn sách triết học, sách giáo lý mà là cuốn sách nói về một chuỗi các biến
cố ,và biến cố trung tâm, chính là Đức
Yêsu đã chết trên thập giá và sự phục sinh của Ngài. Điều nầy nói lên:
chúng ta được sinh ra bởi tình yêu của Thiên Chúa, từ hư vô, để kết thúc trong
sự hiệp thông hoàn toàn với Đấng Hiện Hữu. Nhưng để đạt điều đó, mỗi cá nhân,
nhân loại, phải trãi qua một cuộc lột xác. Đó chính là sự chết và phục sinh.
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu ước và Tân
ước. Ước đây là giao ước, là hợp đồng nói theo ngôn từ ngày hôm nay và đây là
giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Các sách của Cựu ước trình bày một loạt
các câu chuyện nối kết nhau, giữa các câu chuyện đó, đôi khi là chuyện gần với
thần thoại xen lẫn với các câu chuyện thật, có khi là những diễn từ, các việc
phụng tự, đời sống xã hội, các lời trách cứ hay mang lại hy vọng, những tiếng
kêu mời tình thân ái … Trong 46 cuốn cách Cựu ước nầy hầu như Thiên Chúa hiện
diện khắp nơi trên từng trang sách. Cựu ước cho chúng ta thấy cách thức Thiên
Chúa chuẩn bị cho con người, cách riêng dân tộc Israel, để họ nhận biết và đón
nhận nơi Đức Yêsu giao ước kỳ diệu. Có thể dùng câu nầy để minh họa các dòng
trên như sau :
“ Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên
Chúa đã phán với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết nầy,
Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử .” ( Dt 1,1-2)
Sự phục sinh của Chúa Yêsu đã để lại một
con đường sự sống, đó là nguồn cội cho mọi lời rao giảng của các tông đồ và các
cộng đoàn Hội Thánh tiên khởi của Chúa Yêsu Kitô. Những chứng từ được viết từ
buổi đầu ấy được các vị có trách nhiệm chuẩn nhận làm thành bộ Tân ước bao gồm
27 cuốn dưới sự linh ứng của Chúa Thánh
Thần
2
. Đọc Kinh Thánh bắt đầu từ đâu ?
Dễ nhất là khởi từ các sách Tin Mừng, nơi
chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là Lời của Thiên Chúa ( Ngôi Lời ).Tuy nhiên,
không thể có đức tin Kitô giáo mà không có Cựu ước. Những ai đọc Cưụ ước, khi
nghe lời Đức Kitô nói, sẽ hiểu rõ hơn những bài học trong đó và khám phá ra
những ý nghĩa của nó. Tốt nhất nên đọc liên tục một lần tất cả các sách Tân
ước, khởi từ các sách Tin Mừng của Matthêu, Marcô, Luca và Yoan.
Khi đọc Tin Mừng, cũng đừng nghĩ mình là
người đầu tiên hiểu được sứ điệp của Thiên Chúa, nếu không, có nguy cơ bạn sẽ
thành lập một giáo phái mới. Cũng đừng nghĩ mọi vấn nạn riêng mình có thể giải
quyết, nhờ đọc Kinh Thánh. Phải hiểu rằng, Lời Thiên Chúa nói ra là trong hoàn
cảnh cụ thể và trước những những vấn đề riêng biệt của người đón nhận Lời ấy.
Do đó, phải tìm hiểu xem đâu là vấn đề của người ta để tìm xem Lời Chúa nói có
ý nghĩa đích thực gì. Sau đó chúng ta hãy đặt lại vấn đề Lời Chúa nói mang lại
ánh sáng cho vấn đề hiện tại của chúng ta như thế nào.
Cũng không phải Thiên Chúa dạy dỗ trong sớm
chiều nhưng trãi dài qua hơn 15 thế kỷ từ Abraham cho tới thời các tông đồ và
Ngài cũng không dạy tất cả mọi sự ngay từ đầu. Do dó không có gì ngạc nhiên khi
Môsê và các ngôn sứ, không biết một loạt các vấn đề quan trọng mà các tông đồ,
chứng nhân của Chúa Yêsu, kể lại cho chúng ta .
Khi đọc Kinh thánh cũng đừng bị cuốn hút
vào những trang sách được cố tình viết theo lối hành văn phức tạp của thể văn
thời ấy mà ta thường gọi là văn khải huyền, để rồi quên đi những điều rõ ràng,
căn bản là cái chính. Cuối cùng là các anh chị hãy không ngừng đọc Kinh Thánh,
mục đích không phải để hiểu những gì chưa hiểu nhưng là một bằng chứng chúng ta
yêu mến Thiên Chúa và Ngài là người Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta “ Sự
khôn ngoan của Kinh Thánh” để tìm thấy sự sống trong mọi Lời của Ngài .
3
. Sử dụng sách Kinh Thánh như thế nào ?
Các sách trong Kinh Thánh được chia thành
từng chương khác nhau theo sáng kiến một Giám mục người Anh thế kỷ thứ 8. Sau
đó năm 1551, một thợ in người Pháp thêm vào công việc nầy bằng cách đánh số
câu, bất đầu từ Tân ước, sau đó áp dụng luôn cho cả phần Cựu ước nữa .
Như thế, các sách trong Kinh Thánh được
chia thành nhiều chương và mỗi chương thành nhiều câu. Thí dụ như sau :
- Ga 20,13-15 có nghĩa là Tin Mừng thánh
Gioan chương 20 từ câu 13 đến câu 15 . Trong đó Ga là từ viết tắt của
Gioan .
- 1
Cr 1,5-7 có nghĩa là thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô chương 1 từ câu 5 đến câu 7,
trong đó 1 trước Cr có nghĩa là thư thứ
nhất, Cr là viết tắt của Côrintô .
Trong tất cả các sách Kinh Thánh từ Cựu ước cho đến Tân ước ở phần đầu sách đều có ký
hiệu nói trên để người đọc dễ truy tìm câu cần đọc. Ngoài ra , trong các sách,
đa phần đều có thêm phần chú thích bên dưới trang, sau một ký hiệu gạch ngang
và được in bằng tuồng chữ khác trong trang chính . Các anh chị cũng nên ghé mắt
nhìn qua, ngõ hầu có thêm chút kiến giải cho mình vì đa phần các chú thích nầy
đều do các nhà chú giải Kinh Thánh có kiến thức sâu rộng .
4. Đọc hiểu Kinh Thánh thế nào?
Thật là sai lầm khi đọc và hiểu Kinh Thánh
theo nghĩa đen của sự kiện. Các giáo phụ trong những thời kỳ đầu đã loại bỏ
cách hiểu ấu trĩ nầy. Hội Thánh từ thời trung cổ, giáo đoàn Alexandria đã biết
phải hiểu theo nghĩa thế nào. Tựu trung như sau :
- Nghĩa mặt chữ cho biết sự kiện ( dù sự
kiện đó đôi khi không có thật).
- Nghĩa tượng trưng cho biết điều phải tin.
- Nghĩa luân lý cho biết điều phải giữ.
- Nghĩa thần bí cho biết điều hy vọng.
Cũng cần nói thêm, phim ảnh về các sự kiện
Kinh Thánh dễ làm méo mó sứ điệp Cứu độ muốn đề cập, nhiều người nhầm tưởng một
phiên phóng sự tường thuật tai chỗ mà quên nghĩa đạo lý và thần học của sự
kiện. Cũng dễ hiểu vì phim ảnh có mục đích là lợi nhuận nên cần có những màn hư
cấu để thu hút.
Đôi dòng gọi là dẫn nhập, chúng ta cùng đi
vào phần đầu tiên trong chương trình Cứu độ của Thiên Chúa .
DẪN NHẬP CƯU ƯỚC.
Các bạn, các anh chị thân mến,
Thời gian đã 5 năm, từ khóa gldt 1AP 2008 đến
khóa 10AP 2012, chúng tôi nhận ra rằng giáo trình dẫn nhập vào Cựu Ước cần được
hiệu chỉnh lại, phù hợp với điều kiện tìm hiểu của anh chị học viên hơn. Lịch
sử Cứu Độ qua Cựu Ước không phải là bộ sách được sáng tác từ thuở hồng hoang,
nhưng trãi qua nhiều giai đoạn.
Chúng
ta biết văn minh chữ viết được hình thành trong một thời gian dài. Trước thời
kỳ nầy, người ta sử dụng 1 số phương tiện truyền khẩu như thần thoại, truyền kỳ,
trường ca… để lưu lại ký ức, kinh nghiệm cho hậu bối. Dân Israel, Dân Thiên
Chúa, cũng nhận được mặc khải tiệm tiến như vậy. Họ chỉ làm quen với nền văn
minh chữ viết khi tiếp xúc cùng các sắc dân Canaan sau cuộc vượt thoát khỏi Ai
Cập, được tường thuật trong Sách Xuất Hành ( Exodus).
Khi
theo học các lớp Giáo lý, nhất là Gldt, rất nhiều anh chị bở ngỡ khi được giới
thiệu 1 cách đột ngột về Ngũ Thư (Torah), nhất là Sách Sáng Thế ( Genesis ),
trong đó trình bày câu chuyện thi vị hóa về Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con
người, câu chuyên Ađam – Eva, nguyên tội
( péché originel )… Đây là đề tài cho nhiều luận điểm khích bác, châm
chọc, của nhiều học thuyết xưa nay, cũng như những bênh vực mù quáng, giáo điều,
ấu trĩ của nhiều tín hữu. Để có thể cảm nhận tương đối những điều Cựu Ước trình
bày, chúng ta lần lượt cùng nhau tìm hiểu:
1. Lược sử dân Israel.
Lịch
sử cận đại nhận định có 5 nền văn minh lớn ảnh hưởng đến phát triển của cộng
đồng nhân loại : Lưỡng Hà ( Lưu vực 2 sông Euphrate- Tigre), Sông Nil ( Ai Cập
cổ), Hằng Hà ( Ấn Độ), Hoàng Hà ( Trung Hoa ), Châu Mỹ ( Maya, Incas). Trong
đó, văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập cổ có sự giao lưu tương đối phát triển. Rất
nhiều bộ tộc du mục di chuyển giữa 2 nền văn minh nầy qua 1 giải đất hẹp: vùng
Palestine.
Khoảng 18 thế kỷ trước Công nguyên, trong
số các bộ tộc du cư từ Lưỡng Hà sang Ai Cập, có bộ tộc do Abraham đứng đầu.Trên
khía cạnh lịch sử, Abraham là nhân vật không mấy tên tuổi. Tuy nhiên, dưới nhãn
quan tôn giáo, ông được nhìn nhận như tổ phụ của nhiều dân tộc trung cận đông,
đó cũng là ý nghĩa tên của ông. Thú vị là nhân chủng học hiện đại phát hiện:
dân Israel và Á Rập có cùng ông tổ.
Trong
các thời kỳ đói kém, nhiều bộ tộc du mục thường hay nương nhờ tại các vùng biên
thùy Ai Cập, tại thời điểm nầy, chính quyền cai trị là người Hyksos. Trong đó
có Abraham và con cháu ông, mà Yuse, là khuông mặt nổi bật. Ông làm quan
tướng cho chính quyền sở tại.
Đến thế
kỷ 13, người Ai Cập tại phương nam khôi phục lại vương quyền trên toàn bộ lãnh
thổ Ai Cập với những tên tuổi như Ramses I, II…nhiều dân du mục bị cưỡng ép lao
động nặng nhọc, phục vụ cho công cuộc xây dựng các kiến trúc của các triều
Pharaoh. Du mục là dân ưa thích sự tự do, họ trốn chạy vào vùng sa mạc hoang
địa, sống đời phóng khoáng như cha ông. Môsê nổi lên như một lãnh tụ đã đưa
Israel thoát khỏi thân phận nô lệ để hình thành nên 1 dân đặc biệt, Dân của Giao Ước, Dân Thiên Chúa. Trên 200
năm tiệm cận đất Canaan, dân Israel bằng nhiều hình thức: đánh chiếm, giao hảo,
chen lấn dần giữa dân cư trong xứ rồi sáp nhập… Đây là giai đoạn Cựu Ước gọi là
thời các thủ lãnh với nhũng tên tuổi như
Deborad, Ghideon, Samson…
Thiên
niên kỷ 1 trước Công nguyên, năm 1000, David với tài chính trị và
dụng binh khéo léo đã bắt các thế lực chống đối quy phục, tiến vào
Yêrusalem, hình thành nên trung tâm tôn giáo, chính trị của Israel. Đây là thời
kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Israel, kéo dài 69 năm, dưới triều đại David và
Salomon. Sau thời kỳ hoàng kim nầy, Israel bắt đầu trượt dài do não trạng địa
phương, tranh dành trong nội bộ các chi tộc, và hậu quả là cuộc phân chia Nam Bắc : Bắc quốc Israel, còn gọi là Ephraim,
với 10 chi tộc, đế đô là Samarie, Nam quốc Yuđa với chi tộc Yuđa và Bengiamin,
thủ đô Yêrusalem. Cùng với việc phân chia đất nước, việc ly khai tôn giáo cũng
thành hình.
Bắc
quốc tồn tại được 200 năm, tận diệt vào năm 721 trước Công nguyên, vào thời
Sargon đệ nhị của Assur. Toàn dân bị lưu đày khắp đế quốc và dân nơi khác lại
định cư tại Samarie, theo chính sách chống nổi loạn của chính quyền Assur. Nam
quốc Yuđa cũng lâm vào hoàn cảnh không khá hơn, chính trị lúc dựa bên nầy, lúc
ngã bên kia, hậu quả bị Nabucho Đonosor, đế quốc Babylone đánh chiếm năm 587
trước Công nguyên. Đền thờ bị phá hủy, toàn dân phải lưu đày tại Babylon, ngoại
trừ 1 số nhỏ, số sót lại, theo ngôn từ của các ngôn sứ.
Sau 50
năm lưu đày tại Babylon, dân Israel có cơ hội suy tư, cảm nhận những gì Thiên
Chúa đã làm cho dân tộc. Năm 538, vua Kyrô của Batư tiến vào Babylon, cho phép
các dân lưu đày hồi hương. Nhiều nhóm Israel xuất hành, trở về kiến tạo lại đất
nước. Từ đây, vương quyền của Israel chỉ còn trên bình diện tôn giáo, mà các
thượng tế, kinh sư là người lãnh đạo. Năm 332, lại 1 biến cố làm thay đổi cục
diện chính trị vùng Đất Hứa, Alexandre đại đế của Hy Lạp phá tan đế quốc Batư.
Tuy nhiên, Alexandre mất sớm, đế quốc được chia cho các tướng lĩnh: Ai Cập với
các vua Ptolémé, (Israel thuộc quyền các vua nầy); Syria với các vua Antiôkô.
Bất hạnh thay, năm 200, Antiôkô xứ Syria thôn tính Ptolémé, Israel lại rơi vào
tay Syria với các cuộc cấm cách bách hại đạo Do Thái dữ dội, đặc biệt dưới
triều Antiôkô Êpiphanê (-175-163). Cuộc cấm cách bách hại nầy làm trổi đậy cuộc
chiến phục quốc Israel do anh em nhà Hasmônê lãnh đạo, điển hình là
Maccabê (Sách Maccabê ). Cuộc chiến
thắng lợi, dòng họ Hasmônê thu tóm mọi quyền lực chính trị và tôn giáo và điều
hành đất nước từ 142 đến 63 trước Công nguyên.
Đế quốc
Roma nổi lên như kẻ kế thừa đế quốc Hy Lạp, lần lượt xâm nhập và đánh chiếm các
nước khác. Nhân cuộc tranh chấp quyền lực của anh em nhà Hasmônê năm
-63 trước Công Nguyên, Pompéius kéo quân vào
Yêrusalem, chiếm quyền cai trị và chỉ để nhà Hasmônê nắm quyền tôn giáo. Chính
trong giai đoạn nầy mà Đức Yêsu, vị Mêssia được mong đợi ra đời. Đế quốc Roma
đã tận diệt Israel vào năm 131, triều vua Hadriano, sau nhiều cuộc nổi loạn của dân bản xứ. Ông
phát vãng toàn bộ dân Israel, Yêrusalem trở nên 1 thành dân ngoại, cấm tuyệt
không cho bất kỳ người Do Thái nào vào. Mãi 1948, Israel mới được tái lập dưới
sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc.
2. Giải thích lịch sử của các ngôn sứ.
Phải nói ngay từ ban đầu, Kinh Thánh Cựu Ước được viết đa phần trong
khoảng thời gian từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 6 trước Công nguyên, dựa trên những
truyền kỳ, ký ức của cha ông, nhất là với biến cố lưu đày tại Babylone năm 587.
Làm thế nào dân Do thái lại sống sót, trong khi biết bao dân tộc khác đã
đánh mất bản ngã, danh tính, khi trà trộn làm dân của các đế quốc Tiểu Á cổ
thời? Không mấy dân bị tàn phá, bại trận liên tiếp, bị phát lưu tha phương, vẻn
vẹn chỉ còn một nhóm sót lại, dưới ách đô hộ lâu năm của những quyền bính xa
lạ, văn minh, thế mà người Do Thái vẫn tồn tại. Chẳng những thế, họ còn tái
thiết cộng đoàn và chuyển lại một truyền thống phát triển thêm, có ảnh hưởng
kiến tạo trên tất cả lịch sử về sau. Tại sao? Câu trả lời chỉ có thể là : Các
ngôn sứ trong vòng 2 thế kỷ 8 – 6 đã tổ thuật được một giải thích đặc biệt về
trình tự lịch sử và gây được người hưởng ứng, một số người vừa đủ để làm cho
lịch sử đến sau phải chuyển qua hướng mới.
Thật ra, chính các ngôn sứ đã không nghĩ thế. Họ không phải là những
triết gia lập thuyết 1 cách trừu tượng, sau khi đã chiêm nghiệm, quan sát lịch
sử. Các vị tự giới thiệu bằng kiểu nói của sứ giả : Chúa Thượng phán thế nầy !...
Họ tin chắc chính Thiên Chúa đã phán với họ cũng như đã phán với cha ông họ qua
các truyền kỳ. Bằng cách nào là 1 vấn đề thuộc hiện tượng thần bí.
Phương thức giải thích lịch sử của ngôn sứ không phải do hoạt động trí
khôn họ. Thiên Chúa đã phán với họ qua biến cố họ sống, đó là ý nghĩa họ thấy
chính trong biến cố, khi lòng trí họ mở ra cho Thiên Chúa cũng như giác quan họ
mở ra cho biến cố bên ngoài. Vì thế, việc giải thích lịch sử do các ngôn sứ,
cũng như định hướng và ảnh hưởng trên lịch sử, được đồng hóa với Lời Thiên Chúa
ngỏ cùng loài người. Chúng ta có được tường thuật ơn thiên triệu nầy trong các
sách ngôn sứ, nhất là trong Isaya 6, 1-8.
Kinh nghiệm của Isaya là kinh nghiệm căn bản, cắm sâu vào bản ngã của 1
con người. Chính tại kinh nghiệm ấy, đã tóm tắt tất cả những cốt yếu cho việc
giải thích lịch sử của các ngôn sứ : Có kinh nghiệm ý thức về uy quyền và thánh
thiện của Yahveh Thiên Chúa là điều căn bản mọi sự, có con người trước nhan
Thiên Chúa, vừa bị lên án vừa được thứ tha. Có lời kêu gọi của Thiên Chúa và
tiếng đáp ứng của con người ( Các anh chị tham dự lễ mùng 1 tết Quý Tỵ 2013 đã
được nghe ơn gọi nầy của Isaya ). Đấy chính là Thiên Chúa đứng trước mặt loài
người, trong sự phán xét và trong lòng thương xót của NGÀI, ra lời hiệu triệu,
đòi hỏi phải đáp ứng. Ngôn sứ giải thích lịch sử như thế, và họ đã lôi kéo được
1 số người sẵn sàng đón nhận. Các chuỗi biến cố cùng với sự am hiểu theo nhãn
giới các ngôn sứ đã có những hậu quả kỳ vỹ cho lịch sử những thế kỷ về sau.
Các sách Cựu Ước, trong hình thức còn lưu lại, đều được viết sau thời
các ngôn sứ và mang dấu tích ảnh hưởng của các ngài. Các sách lịch sử được soạn
lại, theo những biên niên sử và hồ sơ xưa sưu tập, nhưng do tay các đồ đệ của
các ngôn sứ. Như vậy, ngũ kinh ( Torah ) cũng được san định dưới ảnh hưởng của
các ngôn sứ. Ơn kêu gọi của Abraham, của Môsê, đều được tường thuật bằng từ ngữ
các ngôn sứ dùng để diễn đạt ơn thiên triệu của họ. Các môn đệ của các
ngôn sứ đã tra tay viết lại lịch sử thánh của Israel là có ý định cho thấy ý nghĩa chất chứa trong đó, chiếu theo giáo huấn của
các ngài.
3. Nguồn tài liệu.
Khi soạn lại các sách, đồ đệ các ngôn sứ đã căn cứ vào các truyền kỳ,
truyện tích được lưu truyền từ thời cha ông, kết hợp lại với những gì được thu
nhận với nền văn minh tiếp xúc, nhất là ảnh hưởng các ngôn sứ, để hình thành
đại bộ phận các sách Cựu Ước. Các truyền thống nầy đan xen nhau, bổ túc cho
nhau, đôi khi song song… thể hiện dẫy đầy trong các sách. Khoa nghiên cứu Kinh
Thánh có nhiều nhận định về các nguồn tài liệu nầy, tuy nhiên, phổ biến nhất là
nguồn 4 truyền thống. Gọi là J E D P.
Nguồn tài liệu J được hình thành khi vào giai đoạn lập quốc của Israel
kéo dài đến vương quốc Yuđa ở phương nam, Gọi Thiên Chúa là Yahveh. Ký hiệu J. Nguồn tài liệu E được biên soạn tại
phía bắc, vương quốc Israel Ephraim, gọi Thiên Chúa là Elohim ( số nhiều của
EL: Thần ), Ký hiệu E. Sau khi
Israel Ephraim bị tàn phá, 2 nguồn tài liệu nầy được đúc kết chung với nhau
(JE). Đến thời vua Yôsia của Yuđa, vào thế kỷ VII trước CN, có thêm nguồn tài
liệu Đệ nhị luật, còn được gọi là Thứ luật (Deuteronomium) được phối hợp vào
(JED). Sau thời lưu đày Babylon, có thêm 1 nguồn do các tư tế, môn đệ ngôn sứ san
định, gồm luật lệ và 1 số trình thuật. Ký hiệu P. Trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người mở đầu trong
Sách Sáng Thế và cả Cựu Ước, là công trình của các vị tư tế nầy.
Hiện
nay, khoa nghiên cứu Kinh Thánh vẫn đang nổ lực tìm hiểu thêm về các nguồn tài
liệu , theo nhiều phương pháp, hướng nghiên cứu khác nhau. Chúng tôi mong muốn
trình bày cho các anh chị đôi nét sơ lược để bớt chút ngõ ngàng khi tham gia
khóa học.
TẠO
DỰNG - SA NGÃ - LỜI HỨA
CỨU ĐỘ .
1.
SÁCH SÁNG THẾ.
Khát
vọng con người trong mọi thời là muốn biết nguồn cội của mình. Đây chính là nỗi
khao khát Thiên Chúa đặt trong lòng mọi
người, như công cụ mặc khải về sự hiện diện của Ngài. Con người luôn tìm kiếm
quá khứ của mình, khởi từ các nhóm người rồi đến các dân tộc, nỗ lực tìm kiếm
như để tìm thấy trong quá khứ những điều mà ngày hôm nay họ tin tưởng. Kể lại
lịch sử mình là cách khẳng định căn tính bản thân giữa bao cộng đồng dân tộc
lớn nhỏ. Sách Sáng Thế cũng như vậy. Sách nầy được hình thành từng khúc, từng
đoạn, trong nhiều thế kỷ. Đến thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, mới được định
hình vĩnh viễn. Có nghĩa, dân Israel sau lưu đày Babylon, đã đem niềm tin của
mình viết thành văn tự. Đây là một áng văn bình dị nhưng tuyệt diệu để diễn đạt
tình yêu của Thiên Chúa
Chúng ta không tìm đọc trong Sáng Thế như
một tài liệu về nguồn gốc vũ trụ, hay một tội phạm của nguyên tổ loài người.
Những áng văn diễn tả trong những chương đầu của sách, mang đậm nét một bài
thánh ca phụng vụ, trong đó, con người cảm nhận được Thiên Chúa là Đấng tạo thành, Ngài vượt xa các công
trình sáng tạo đang làm cho chúng ta ngây ngất chiêm ngưỡng, thán phục. Các
chương nầy cố gắng đưa ra một chuổi nối kết những khoảng thời gian vô tận từ
lúc tạo thành cho đến các “ Tổ phụ tiên khởi của lòng tin ” mà
người được ghi nhớ đầu tiên là Abraham. Phần thứ hai, gợi nhớ hình ảnh các thị
tộc du mục, đã tin vào Thiên Chúa thời bấy giờ. Một Thiên Chúa của cha ông họ
rất gần gũi, thân mật, luôn che chở họ. Phần thứ ba trong sách là câu chuyên
ông Yuse, làm lóe lên tia sáng đầu tiên trong những tấn bi kịch đời sống con
người. Loài người cần một vị Cứu Tinh và ơn cứu thoát của họ sẽ đến, nhờ những
người mà trước đây, chính họ ngược đãi và loại trừ .
Sách Sáng Thế hình thành do nhiều tác giả
và nhiều giai đoạn từ lúc bán khai du mục không có chữ viết và được ấp ủ truyền
khẩu cho đến khi định cư tại Palestin và dần gia nhập vào nền văn hóa chữ viết.
Các tác giả đầu tiên đã vay mượn nhiều của văn chương người Babylon và phần thi
ca của họ về đôi vợ chồng nguyên thủy, về nạn hồng thủy, nhưng cải biên lại để
đưa ra cái vũ trụ quan xuất phát từ niềm tin của cha ông. Các trình thuật cổ
xưa nầy còn được các tác giả khác bổ sung thêm những yếu tố thuộc về truyền
thuyết khác, thường trùng lắp nhau. Sau cuộc lưu đày từ Babylon trở về, các tư tế lại viết thêm nhiều
đoạn. Một trong đó, là bài thơ sáng thế trong sáu ngày, bài khởi đầu trong sách
Sáng Thế và là chương mở đầu cho toàn bộ Kinh Thánh .
2. THIÊN CHÚA TẠO DỰNG . ( St 1,1-31 và 2,1-4a ) ( St 2, 4b-25)
Như đã nói ở phần trên, chúng ta có hai
đoạn văn đơn sơ nói về sáng tạo nên vũ trụ và con người, do các tác giả khác
nhau biên soạn. Các đoạn văn nầy không thể gán ghép vào nhau, nhưng mỗi đoạn
đều thấm đẫm những ý nghĩa soạn giả muốn truyền đạt. Chúng ta sẽ lần lượt cùng
tìm hiểu :
2.1
Tạo dựng trong sáu ngày ( St 1,1-31)
Trước tiên
bài ca tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày có tiết điệu nhịp nhàng mang dấu chỉ một bài thánh ca
phụng vụ, chứ không phải là một bài giáo
khoa khoa học, miêu tả vũ trụ hình thành như thế nào, như những tranh luận
trong hơn mấy trăm năm qua. Chắc hẳn, ai là người Việt Nam cũng thuộc tích con
Rồng cháu Tiên, nhưng không ai tin đó là một luận thuyết khoa học. Bài ca tạo
dựng vũ trụ cũng thế, nó cho chúng ta điều cảm nhận đầu tiên về một Thiên Chúa
Hằng hữu, vượt xa mọi công trình tạo dựng của Ngài, dù các công trình đó đang
làm cho chúng ta ngây ngất chiêm ngưỡng, cũng như hãi sợ, vì không hiểu hết các
cơ chế của nó. Cũng trong trình thuật nầy cho thấy toàn bộ công trình Ngài tạo
dựng là một sức sống, mà Lời và Thần Khí được nói ở đây như
đôi bàn tay của Thiên Chúa Tạo Thành.
Chương nầy ( St 1 và 2,1-4a) thuộc truyền
thống P, cho thấy sự uyên bác của hàng tư tế hơn đâu hết. những dòng viết nầy
không phải được viết trong sáng chiều, nhưng là đúc kết, suy nghĩ, cân nhắc
trước sau minh bạch, từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Không thể xem đây là một
chương ấu trĩ, luộm thuộm. Chương nầy là một mệnh đề đức tin. Lời văn trong câu
nêu lên đạo lý cơ bản : Thiên Chúa tạo nên vũ trụ bởi ý định hoàn toàn tự do
của Ngài.
Câu “ Thiên Chúa phán ” hàm ý đây là
ranh giới giữa Đấng Tạo Thành và các loài thụ tạo. Thế giới thụ tạo không phải
là Thiên Chúa, không phải là khuôn mặt của Ngài và Ngài càng không lệ thuộc nó.
“ Liền có” Cụm từ khẳng định Thiên Chúa Toàn Năng, tạo thành vũ
trụ từ hư không, mọi tạo thành được hiện diện theo ý định của Thiên Chúa, một ý
định tốt lành thánh thiện được trình thuật trong câu thường hay lặp lại: “
Thiên chúa thấy thế là tốt đẹp ”, mang một tín yếu cơ bản là Ngài không
tạo nên gì xấu.
Thiên Chúa quan phòng tạo dựng vũ trụ theo 1 trình tự. Ngài không
tạo ra cách ngẫu nhiên, nhưng theo 1
tiến trình tuyệt hảo, được Sách Sáng Thế diễn đạt bằng cuộc phân tách trong 3
ngày đầu và trang trí trong 3 ngày tiếp theo.
Thiên Chúa cho thấy sự huyền nhiệm phong
phú sâu thẳm nơi Ngài, Thiên Chúa duy nhất nhưng không đơn độc.
“ Thần khí bay lượn trên mặt nước ( St 1, 2)… Lời phán ( St 1, 3)… Chúng ta hãy
taọ dựng con người ( St 1,26)…”
Chương đầu tiên nầy cho biết: Thiên Chúa là
Đấng duy nhất hiện hữu và vũ trụ cùng các định luật của nó đều là thụ tạo của
Ngài. Thật tuyệt vời! Trong lúc các nền văn minh chói lọi cổ đại còn tin tưởng
thờ thụ tạo như thần mặt trời ( Ai Cập, Aton), mặt trăng ( lưỡng hà, Ur), lại có
một nhóm dân không lấy gì nổi bật, bé tí, chẳng văn minh bằng ai, xác quyết vũ
trụ nầy là thụ tạo.
Con người cũng là thụ tạo do Thiên Chúa
dựng nên, nhưng có vị thế đặc biệt trong tạo dựng. Đoạn trình thuật cho thấy
tính chất trang trọng, như có sự bàn thảo:
“Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta, giống như
chúng ta, để làm bá chủ…và Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên
Chúa” Câu nầy cho chúng ta thấy
Thiên Chúa yêu thương và trao cho con người phẩm giá cao quý:
-
Thiên Chúa sáng tạo nên con người theo hình
ảnh Thiên Chúa. Đây
là một trong những điều quan trọng nhất
mà Kinh Thánh khẳng định . Con người không thể bị giam hãm trong các ảo ảnh
mình tạo ra, không là tù nhân của các phạm trù do mình đặt, nhưng là con người
được tạo ra cho Sự Thật. Thiên Chúa đã cho con người biết những điều nầy bằng
chính ngôn ngữ và kinh nghiệm con người rằng chúng ta được sáng tạo để đáp lại
lời mời gọi của Thiên Chúa ( Mặc khải tiên khởi)
- Thiên Chúa sáng tạo con người có Nam có
Nữ. Đây chính là phẩm giá
của họ. Thật đáng kinh ngạc, một xã hội
cổ mà khẳng định tính chất bình đẳng nam nữ, tôn trọng phẩm giá con người. Như
thế, điều nầy nói lên rằng, Tình yêu đứng đầu trong chương trình Thiên Chúa, sự
tiến hóa lâu dài về tình dục chỉ nhằm chuẩn bị cho tình yêu mà thôi.
- Hãy thống trị mặt đất mang lại ý nghĩa trao
phó cho vũ trụ cho con người để tiếp tục góp phần vào sự thăng hoa của vũ trụ. Thiên Chúa nâng cao phẩm giá con người, như
một đồng chủ nhân, một cộng tác viên tham gia vào công cuộc tạo thành. Con
người sẽ sử dụng mọi khả năng để làm cho cuộc sống phát triển.
Đến đây, không thể không nói đến khoa học.
Có một số những kẻ mệnh danh là nhà khoa học, từ xưa đến nay, xem Thiên Chúa
như là như là một trở ngại, kìm hãm sự phát triển của con người. Những tưởng
một mớ kiến thức mình có được là một sự khám phá kỳ vỹ, đẩy Thiên Chúa tới sự
tiêu vong, trong lúc thực chất những cái mà họ ngỡ của mình phát minh ra chỉ là
những công cụ Thiên Chúa ban tặng cho con người để làm chủ vũ trụ
Sau khi hoàn tất việc tạo dựng, ngày thứ
bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi, mang ý nghĩa
thánh hóa con người khỏi những ách thường ngày trong cuộc sống, để gặp
gỡ Thiên Chúa, tha nhân cũng như soi rọi bản thân trong mối quan hệ của thân
phận thụ tạo và Đấng Tạo Thành .
Qua đoạn trình thuật trên, chúng ta nhận
thấy Kinh Thánh đề cao phẩm giá con người khi khẳng định con người xuất phát từ
Thiên Chúa, chứ không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên. Các dân tộc cổ đại tin
rằng, họ lệ thuộc các sở thích thất thường của các vị thần, con người vô phương
thoát khỏi sức mạnh của định mệnh. Ngay cả những người vốn rất tự hào là những
người tự do, như người Hy Lạp, cũng phải khuất phục sức mạnh nầy. Truyền thuyết
về Oedipus là một minh chứng. Trái lại, Kinh Thánh lại giới thiệu những con
người không sợ quyền lực tự nhiên, được phú bẫm năng lực để làm chủ chúng. Con người có tự do.
Đằng sau trình thuật nầy, chúng ta có mặc
khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. “ Chúng
ta ( Elohim ) hãy làm ra người theo hình ảnh chúng ta ” (St 1,26 ) Thiên
Chúa đã tạo dựng người như chóp đỉnh của
tạo thành, như hình ảnh Thiên Chúa, hình ảnh tuyệt vời không gì sánh được.
2.2
Thiên Chúa tạo dựng Con Người, Thử thách ( St 2, 5-25 )
Liền ngay sau trình thuật tạo dựng trong 7
ngày, chúng ta gặp một trình thuật còn cổ xưa hơn nhiều: Người Nam và người Nữ
trong vườn địa đàng. Truyền thuyết mang ý nghĩa cách con người đang hiện hữu
chọn lựa tương lai họ. Phần trình thuật nầy cho thấy nhân loại có bước phát
triển, từ bán khai du mục tiến đến định cư, phản ảnh câu chuyện Ađam được đặt trong vườn Eđen để
chăm sóc vườn và cai quản muôn thú.
Truyền thuyết Ađam như nói trên được biên
tập lại từ thần thoại của văn minh Lưỡng Hà nhưng mang một nội dung mới. Tiếng
Hipri, Ađam có nghĩa là Con người, loài người. Thiên Chúa được miêu tả như
người thợ gốm nhào nặn nắm bụi đất trong tay, cho nó đón nhận sinh khí, sự sống
từ chính hơi thở mình. Đây là hình ảnh nên thơ và tuyệt diệu miêu tả mối quan
hệ yêu thương Thiên Chúa đối với con người: Nhận lấy sức sống từ Ngài.(
Hình ảnh nầy, chúng ta được gặp lại trong Tin Mừng, vào Ngày thứ nhất trong
tuần, khi Chúa Yêsu sống lại. Ngài cũng thổi hơi trên đầu các tông đồ để ban
Thánh Thần cho họ, để trở thành tạo vật mới trong cuộc tạo thành mới).
Ađam ( Con Người) được trao phó để làm chủ.
Thiên Chúa giàu nhân ái cho con người làm chủ
khu vườn qua việc đặt tên các loài thú, chim muôn…thu hoạch mọi hoa trái
trong vườn để sử dụng. Con người có được mọi thứ, bao gồm cây Trường Sinh để
sống mãi trong hạnh phúc, nhưng cần vâng lời Thiên Chúa tránh xa cây Biết Lành
Biết Dữ. ( Con Thiên Chúa là vâng phục Thiên Chúa, các bạn lưu ý để đối chiếu
lại với 3 cơn thử thách của Chúa Yêsu trong hoang địa) Như thế, làm chủ
không phải là ăn không ngồi rồi, nhưng vui sướng trong công việc được chúc
phúc, thiên nhiên hài hòa và mang hoa trái cho việc lao động đó.
Đến đây, chúng tôi giải thích thêm để các
bạn hiểu: Biết Lành Biết Dữ chỉ tất cả nội dung sự biết. Hai từ đối chọi
đó hợp làm một, diễn tả tính toàn diện. Biết không thuần lý như hiểu biết cách
thực hiện, khéo léo, giỏi việc gì…nhưng ý nói đến tài năng siêu phàm, hiểu theo
nhãn giới vùng Tiểu Á, là các phù phép ma thuật. Đối với các ngôn sứ, các loại
ma thuật là quyền năng trộm của Thiên Chúa, nghịch lại Thánh Ý Thiên Chúa. Tác
giả đặt tội trộm quyền phép Thiên Chúa, vào ngay nguồn gốc nhân loại.
Con
người còn được đặt trong môi trường tuyệt vời để phát triển, Thiên Chúa cũng đã
ban cho con người một trợ tá tương xứng, để họ kết hợp trong tình yêu, trao
hiến chính mình và chia sẻ hạnh phúc với nhau. Người Nữ xuất hiện như người bạn
đời, chứ không là tỳ nữ. Cả hai trở thành một xương một thịt biểu hiện tính duy
nhất của đôi lứa chứ không phải là một tạm ước, để hai bên tận hưởng nhau ( Một phương thức sống thường bắt gặp trong
thời buổi hiện nay ) Họ làm nên một
gia đình, nơi đó, công trình Thiên Chúa được thực hiện. Từ gia đình đó
con cái sinh ra và như thế, đôi lứa hoàn lại cho nhân loại kho báu nhân tính họ
đã nhận.
Trình thuật nầy không có tham vọng mô tả
phương thức loài người xuất hiện. Trình thuật mang một sứ điệp tiên tri: Khi
tạo dựng lứa đôi, Thiên Chúa cho chúng ta hiểu phần nào mầu nhiệm Đức Kitô,
Đấng đến với nhân loại như vị hôn phu. Như Eva ngày xưa xuất phát từ cạnh sườn
Adam khi ông đang ngủ thế nào thì từ cạnh sườn
Đức Yêsu trên thập giá, nước và máu trào ra sản sinh nên một Hội
Thánh thanh tẩy, hôn thê yêu quí của
Ngài .
2.3 SA NGÃ . ( St 3, 1-7 )
Chúng ta không ảo tưởng về con người đầu tiên
như một anh Tarzan Adam trong khu rừng
Eden, đã phạm một sai lầm kếch sù, làm di hại đến toàn thể loài người hậu bối.
Chúng ta cùng theo dõi trình thuật gồm 3 bước: Cám dỗ, sa ngã, phán xét.
Tiếp sau trình thuật con người trong môi
trường thân tình với Thiên Chúa, lại nói ngay hiện trạng số kiếp con người. Lỗi
tại ai? Khẳng định đầu tiên: cái xấu, không đến từ Thiên Chúa, nhưng từ thủ
lãnh kiêu ngạo là Satan, sách Gióp đã mô tả. Con rắn trong sách mang dáng dấp
của tên thủ lãnh tối tăm nầy. Trong ký ức của nhân loại, loài bò sát nầy đã gây
ra nhiều tổn thất nhân mạng từ buổi sơ khai tới giờ, nên sách đã mượn hình ảnh
nầy, để diễn tả bộ mặt tên xấu xa đó.
Chước cám dỗ đến, ngụy trang dưới khuôn mặt
tốt đẹp: tìm sự khôn ngoan. Satan đặt để trong lòng con người mối hoài nghi về
tình yêu của Thiên Chúa.Trình thuật sự sa ngã nầy là áng văn diễn tả tâm lý hay
tuyệt của tác giả:
Satan đặt câu hỏi bâng quơ, có vẻ như quá đáng
về điều cấm của Thiên Chúa. Nó để người
nữ ngây thơ tự nhiên liên tưởng đến, rồi đính chính, làm như đã đề phòng, bênh
vực Thiên Chúa. Nhưng những lời đính chính nầy cũng đã làm tổn thương sự đơn sơ
vâng phục. Thế là Satan trắng trợn quả quyết : “ Chẳng chết chóc gì đâu…”
một bước lớn trong quá trình quyến rũ. Thế là, nó để mặc cho người nữ phân vân nghi
hoặc.
Không chống lại được cám dỗ thì tất yếu
phải sa ngã phạm tội. Trình thuật tiếp nối với cuộc đối thoại tay ba giữa Thiên
Chúa, người Nữ, người Nam, nghe thật kỳ lạ Người nữ thèm ăn mà người nam mới là
thủ phạm. Thật ra tác giả trình thuật nầy thấy vào thời bấy giờ người ta khai
thác phụ nữ cũng như sự khéo léo của người bị khai thác để lấy lòng chủ nhân
mình, nên đã có suy nghĩ đàn bà là kẻ đầu tiên bất trung, nhưng Thiên Chúa tỏ
hết mọi sự, đâu chấp nhận kiểu chạy tội của người đàn ông.
Chi
tiết nói lên một cách mỉa mai nỗi thất vọng ê chề của con người khi có tội:
thấy mình trần truồng. “Xấu hổ vì trần truồng” : ám chỉ
đến xúc động giác quan ngoài ý muốn. Điều nầy chỉ sự hỗn loạn trong con người,
không làm chủ được mình. Sự rạn vỡ của bản lĩnh con người. Xấu hổ, diễn tả sự
đảo lộn trật tự đó. Con người thay vì biết điều thiện, điều ác, như các vị thần,
chỉ còn biết điều ác. Bi đát hơn, trốn vào cây cối để tránh Thiên Chúa, được
coi là lý tưởng đạt cho kỳ được. Tan
tành các phấn khởi muốn làm nên một thần linh.
Trình thuật tả cảnh cuộc phán xét là cách
nói lên thân phận kiếp người lầm than khi ra khỏi ân nghĩa Thiên Chúa: gánh
nặng lao động, mối tương quan vợ chồng theo kiểu thống trị ( Adam dặt tên cho
vợ ) sinh hạ và dưỡng dục …Nhưng liền sau các phán quyết đó, trình thuật liền
cho thấy niềm hy vọng của chiến thắng sự
ác một lần dứt khoát. Đây chính là nguồn động lực khích lệ con người xuyên suốt
lịch sử Sách Thánh. Đây cũng chính là niềm hy vọng khiến chúng ta tỉnh thức,
khi đâu đâu cũng thấy những cái ác, cái thất vọng hoặc cái ru ngủ chúng ta,
hoành hành.
Đến đây, các anh chị, các bạn lại thắc mắc:
vậy thì tội nguyên tổ hay tội tổ tông là gì, khi tường thuật từ sách Sáng Thế
chỉ nói lên như một trực giác, có thể hiểu điều nầy được không ?
Thú thật, tất cả chúng tôi, đều trãi qua
thắc mắc nầy. Khi còn là trẻ con, chúng tôi cũng tin một cách xác tín và đơn sơ
rằng, quả thật tội nầy ta mắc phải là tại ông Ađam đã dại đột nghe lời bà Eva,
xơi ngay trái Cấm khiến Thiên Chúa nổi giận,làm án trên suốt con cháu ông bà. Hiện
nay, nhiều người đạo gốc, vẫn còn suy nghĩ ấu trĩ như vậy. Tuổi tác ngày càng
cao, nhưng căn bản lòng tin vẫn không trưởng thành, không quan tâm học hỏi để
phát triển, bằng lòng với những kiến thức được trang bị cho trẻ em.
Như thế, nguyên tội phải hiểu như thế nào
mà mỗi người đều vướng? Phải nói ngay rằng các nhân vật trong sách Sáng Thế
cũng như con rắn là do tác giả vay mượn từ thần thoại cổ, mà thần thoại là các
mãnh vỡ còn lại của thông điệp cổ nhân muốn truyền lại. Bài học đó ở đây là tất
cả chúng ta đều sa ngã, kẻ nặng người nhẹ, tất cả chúng ta đều bất trung với
Thiên Chúa. Nhìn ngắm các sự kiện trong lịch sử, đặc biệt trong lịch sử Israel,
có thể hiểu ngay ra rằng: tội lỗi chúng ta không phải là tội lỗi một cá nhân
riêng lẻ. Mỗi người trong chúng ta ngay từ lúc chưa lọt lòng mẹ đã dầm mình
trong một thế giới bạo lực: người chung quanh, văn hóa, các kinh nghiệm đầu đời
đều dạy cho chúng ta biết tội là gì. Dùng theo ngôn ngữ tâm phân học thì chúng
ta nhiễm tội từ vô thức tập thể.
Câu chuyện nguyên tổ sa ngã nói lên thực
trạng chung nhất nơi con người, muốn tự mình phán quyết điều lành dữ, nhân danh
điều tốt, điều thiện. Làm người, ai cũng vướng vào nguyên tội là vậy.
Cũng phải nói rằng, sự dữ xuất hiện từ thời
gian cụ thể trong lịch sử là sự kiện không ai biết, nhưng hậu quả tràn lan của
nó, đã không còn là vấn đề phải nghi ngờ. Sáng Thế cho ta thấy một thứ trực
giác từ biến cố đau thương nầy, biến cố làm thay đổi hẳn cuộc sống con người,
phải đau đớn, gian truân như kinh nghiệm mà mỗi người trong chúng ta đã trãi.
Kinh nghiệm nầy chúng ta nhận ra trong tất cả mọi hình thái của sự dữ đang hoành hành làm cho cuộc sống băng hoại đi,
không phải chỉ một lần trong dòng thời gian, nhưng tiếp tục mỗi ngày : Hận thù,
chiến tranh, ghen ghét, gian dối, lừa đảo … đè nặng lên cuộc sống nhân loại. Thế đấy, nguyên tội là cách nói
tính chất tội gốc do con người muốn tự tại, muốn tự mình phán xét mọi sự dù
mình là “Không” trước mặt Thiên Chúa.
2.4
Lời hứa cứu độ.
Thật ra, nguyên tội là mặt khác của ơn cứu
độ, chẳng thế mà trong Công Bố Phục Sinh đã gọi lại tội hồng phúc đó sao? Con
người vô phương thoát khỏi ách thống trị của Satan, thủ lãnh của sự dữ, nếu
không được ơn hòa giải với Thiên Chúa. Trình thuật cho thấy hé rạng một tia hy
vọng chiến thắng về phía loài người “Dòng
giống nó sẽ đạp đầu ngươi ”, dấu chỉ Đức Mêsia Yêsu sau nầy. Thiên Chúa
đã đi trước một bước, trong tiến trình giải cứu chúng ta, nhờ Đức Yêsu Kitô. Nguyên
tội chỉ có thể hiểu được nhờ ánh sáng Tin Mừng. Có thể mượn hình ảnh nầy để
hình dung : chúng ta ở trong bóng tối nhưng không biết mình trong bóng tối, chỉ
khi có ánh sáng (ơn Cứu Độ), chúng ta mới nhận thấy mình đang ở trong bóng tối.
Thiên Chúa bẽ gãy mưu toan của tên ác thần bằng cách cho Con Một xuống trần,
vào một vị thế cùng tận nhất của nhân loại để rồi từ đó “ Kéo tất cả lên với người ” (Ga 12,32 ).
Để hiểu được, Lời hứa cứu độ từ đâu, mong
các anh chị kiên nhẫn theo dõi tiếp đến phần các ngôn sứ, sẽ có cái nhìn phản
hồi lại trình thuật nầy. ( trình thuật nầy được biên tập lại vào khoản thế
kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước công
nguyên, dưới ảnh hưởng các ngôn sứ, là người được mặc khải tuyên Lời Thiên Chúa).
Chúng ta sẽ cùng theo dõi trong các chương kế tiếp.
3.HẬU
QUẢ NGUYÊN TỘI.
3.1. Đổ vỡ trong bản lĩnh con
người.
“ Xấu
hổ vì trần truồng” là
cụm từ diễn tả sự băng hoại tự bản lĩnh con người. Con người không còn làm chủ
được bản năng và để thú tính bắt đầu chi phối. Hình tượng ngây thơ trong trắng
nhường chổ cho lăng kính cầm thú. Sự hài hòa, làm chủ bản thân và thiên nhiên
được thay thế cho thất vọng về chính bản thân.
3.2. Đổ vỡ trong mối quan hệ
vợ chồng.
Còn đâu “
Xương nầy bởi xương tôi, thịt nầy bởi thịt tôi”. Thay vào đó là sự đổ
vạ và lăng nhục : “ Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con ăn trái cây ấy…”
Tội lỗi không làm con người hợp nhất, dù là đồng phạm. Chính cái Tôi không chấp
nhận mình tội lỗi, đổ thừa cho kẻ khác. Thiên Chúa cũng bị coi là tác nhân gây
nên. Mối quan hệ yêu mến thâm tình biến thành tương quan quyền lưc. Adam đặt
tên cho vợ cho thấy sự bình đẳng đã mất.
Mối
tương quan bình đẳng, yêu thương nầy chỉ được tái tạo lại khi Chúa Kitô đến,
đặc biệt trong bí tích hôn nhân Công Giáo.
3.3. Đổ vỡ trong gia đình,
quyến thuộc. Cain – Abel ( St 4, 1-16)
Thoạt đầu, câu chuyện Cain và Abel cũng là
một câu chuyện không ăn nhập gì với Adam và Eva nhưng được biên tập lại để nói
lên một ý nghĩa khác. Trình thuật cho thấy: bạo lực là nhân tố quyết định của
lịch sử loài người. Gốc rễ của bạo lực nằm ngay trong thâm tâm con người ( St
4,7 ) và Thiên Chúa, Đấng thi hành công lý, chống lại thứ công lý trả đũa bạo
lực nầy ( St 4,15
Anh em không dung nhau dù được cảnh báo.
Hậu quả nguyên tội nhanh chóng lan tràn và sức hủy diệt nó ngày càng mãnh liệt.
Sự trầm trọng thể hiện nơi sâu thẳm con người, không từ thủ đoạn. Trình thuật
nầy gợi nên con người cần Đấng Cứu độ như thế nào. Nói như Phaolô, cái tốt đẹp
biết vẫn không làm, cái xấu biết nhưng lại làm, là thế.
3.4. Đổ vỡ trên toàn nhân
loại. Lụt hồng thủy. ( st 6,5-21; 7,1-23; 8, 1-22)
Phải nói ngay cơn hồng thủy đã để lại một
dấu ấn mạnh mẽ trong ký ức nhân loại và nó xuất hiện gần như trong thần thoại của
các nền văn minh nhân loại, từ dân tộc nầy sang dân tộc khác. Chúng ta không đề
cập đến sử tính của nó, trình thuật nầy muốn nói với chúng ta điều gì ?
Khi nguyên tội là căn bản, mối tương quan
xã hội tràn ngập tội lỗi. Sáng Thế trình bày Thiên Chúa nhìn xuống trần gian và
thấy: Nếu con người làm được điều gì, thì đó là tội lỗi. Con người cần được tẩy
luyện để trở nên trong sạch, Thiên Chúa sẽ thực hiện ý định Cứu Độ của Ngài.
Cơn hồng thủy là ẩn dụ của bí tích thanh
tẩy ngày nay. Nước của Thần Khí tuôn đổ để xóa bỏ tất cả tội lỗi, thánh hóa,
biến con người nên trong sạch trong ơn nghĩa Thiên Chúa. Theo một nghĩa nào đó,
chiếc tàu ông Noê, chính là Hội Thánh ngày nay. Chúng ta gia nhập vào nhờ lòng
tin và bí tích thanh tẩy, được Chúa Yêsu Kitô là Noê mới tiếp nhận. Sau đó,
không phải chỉ co rút trong lòng Hội Thánh nhưng còn có sứ vụ cứu độ thế gian,
xây dựng thế giới mới trong đó Thiên Chúa hiển trị là ý nghĩa của đoạn trình
thuật nầy vậy.
3.5. nguyên tội : Bản chất con người. Tháp Babel.(
St 11,1-9)
Trình thuật nầy cũng lấy một phần huyền
thoại của Babel (babylon cổ) là thủ đô nổi tiếng một thời với các dinh thự bằng
gạch nung và các tòa tháp bị bỏ dở dang một cách kỳ lạ. Huyền thoại Babylon cho
rằng các thần sợ hãi khi bị loài người ngạo nghễ (Lại kiêu ngạo, không phải tội nguyên tổ nầy
chỉ được nói đến trong Sáng Thế mà còn bàng bạc trong kho tàng văn minh nhân
loại ) đe dọa ngay trong nơi cư ngụ của
các vị thần. Thế nhưng đâu là ý nghĩa mà soạn tác muốn nói đến ?
Chắc chắn là Thiên Chúa không ngại con
người xâm phạm nơi ở như các thần linh Babylon, mà xuất chiêu làm con người
không còn hiểu ngôn ngữ của nhau, đành chia tay tản mác theo từng nhóm ngôn
ngữ. Trong quá trình phát triển, con người khám phá ra những kỹ thuật mới và
dần đưa đến tham vọng quyền bính tập trung trong tay, tham vọng thống trị,
chống lại các mối đe dọa cũng như rũi ro. Đó là nội lực của các đế quốc từng
xãy ra từ cổ chí kim, huy động sức người sức của hòng duy trì phát triển tham
vọng của thiểu số thống trị. Tất cả sẽ bị tan vỡ.
Tội lỗi không làm nhân loại đoàn kết, là điều
khẳng định. Chính nguyên tội là tội gốc muốn mọi người suy tôn thần phục mình,
là lý do con người chia rẻ, chẳng ai phục ai. Một trình thuật mang tính dụ ngôn
tuyệt hảo.
Duy
nhất chỉ một mình Thiên Chúa quy tụ chúng ta lại : Khi Thánh Thần ngự vào tâm
hồn các tín hữu trong lễ Ngũ Tuần (Cv 2) thì Ngài làm cho họ hiểu được nhau
trong ngôn ngữ độc nhất của tình yêu. Sẽ chỉ còn một dân duy nhất là Hội Thánh
.
4
. THỰC HIỆN LỜI HỨA : TỪ ABRAHAM ĐẾN YUSE .
4.1
Thiên Chúa kêu gọi Abraham.
( St 12,1-9 )
Mở đầu cho đoạn trình thuật nầy, chúng ta
lại thấy câu : “Thiên chúa phán…” Xem
lại trong sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên Chúa có ba lời phán :
Lời phán thứ nhất, (chương 1): Đó là lời
phán tạo dựng. Lờì Ngài sáng tạo vũ trụ với các định luật tự nhiên của nó và vũ
trụ không ngừng tùy thuộc vào Ngài. Thiên Chúa đã đặt để cho nó hầu như tự điều
khiển, nhưng không phải tất cả Ngài đã ấn định ngay từ đầu và tự buộc mình, dù
muốn dù không. Hoàn toàn không phải như thế nhưng nên hiểu như trong Tin Mừng
Yoan : “ Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc ” (Ga 5,17) Thiên Chúa không
ngừng bộc lộ chính mình qua các công trình Ngài thực hiện và tạo thành vẫn đang
được tiếp tục .
Lời phán thứ hai (chương 9 ) cho ông Noê
cũng mang nhiều ý nghĩa. Ngài đã thiết lập một giao ước với mọi dân tộc vì tất
cả đều là dòng dõi của Noê . Thiên Chúa giáng phúc cho họ qua con đường
cứu độ và họ sẽ gặp con đường nầy qua 1001 nền văn hóa và tôn giáo của họ ( Cv
17,27 ) Điều nầy thể hiện khi Lời hoặc sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa tự lộ diện
trong cuộc tìm kiếm khôn ngoan của họ. Thế nhưng, khi trao phó kho tàng
vũ trụ cho nhân loại ngày càng lý trí hơn thì Thiên Chúa vẫn chưa lộ ra điều lạ
lùng đó là một tình yêu năng động với các sáng kiến mà chỉ mình Ngài mới hiểu. Như
thế, Ngài kêu gọi những con người, nhóm người cùng sống với Ngài trong một lịch
sử độc đáo và thường trái ngược với các
kinh nghiệm chung. Đó là nội dung lời phán thứ hai.
Lời phán thứ ba (chương 12 ) với lời gọi
Abraham khởi đầu cho một dân của Thiên Chúa, khác với các dân khác, giữa những
người được chọn và không được chọn đôi khi làm cho lương tâm nhiều Kitô hữu cảm
thấy khó chịu. Câu chuyện về sau của Êsau và Giacóp là một thí dụ .Chúng ta sẽ
phải nhận thấy tính chất độc đáo nơi ơn gọi của mỗi một người. Tất
cả hoạt động trong thánh sử đều là sáng kiến của Thiên Chúa và do Ngài điều
khiển:
“ Hãy
rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi, Ta sẽ
làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc
phúc cho ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy, và ngươi sẽ là một
mối chúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc ngươi. Ai nhục mạ ngươi,
Ta sẽ nguyền rũa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc .”
Trong trình thuật nầy, chúng ta rút ra được
những gì ?
Dân Thiên Chúa được bắt đầu với Abraham. Ý
định cứu rỗi của Thiên Chúa trên nhân loại được xác định rõ rệt: Ngài chọn 1
dòng dõi, chính với dòng dõi đó Thiên Chúa dấn mình vào lịch sử. Ơn thiên triệu
Abraham phản ảnh :
- Thiên Chúa chọn Abraham, tương phản với
muôn dân đông đảo: Hoạt động trong thánh sử là do Thiên Chúa điều khiển.
- Lời Thiên Chúa đòi hỏi cắt đứt với mọi
dây liên lạc tự nhiên: Ngài kể tỉ mỉ những điều phải từ bỏ. Ngài biết khó khăn
của sự đòi hỏi nầy, yêu cầu mọi việc phó thác cho Ngài đẫn dắt. Đích hành trình
sẽ được trỏ cho biết : Hãy dựa vào Ngài.
Thánh sử dựa trên Lời Thiên Chúa can thiệp,
định đoạt ( Tv 39,13)
4.1.1
Abraham : Người lĩnh nhận Lời Hứa.
Thiên Chúa ban cho Abraham điều mà người ta
cố sức đoạt lấy không thành ( ám chỉ Babel). Lời Hứa không chỉ dành cho ông và
huyết thống, nhưng còn là sự chúc lành đại đồng.
-
Trình
thuật diễn tả việc lĩnh nhận bằng hình thức chúc lành.
-
Lời
chúc lành đó là nguồn gốc cho đạo lý về Mêsia, Đấng Cứu Độ, được thực hiện theo
từng giai đoạn liên lạc chặt chẽ với nhau, bật nên sự trung tín nhưng không của
Thiên Chúa
-
Lời
Hứa gồm 3 điều : * Đất đai phì nhiêu
* Dòng dõi đông đúc
* Số mệnh nhân loại.
4.1.2 Abraham
: Cha các kẻ tin, Tổ phụ lòng tin tiên khởi.
-
Tuân
thủ lệnh ra đi đến nơi bất định khi tuổi đã xế chiều.
Tính tuyệt đối của đức tin Abraham nơi
Thiên Chúa trái ngược với những bảo đảm theo tiêu chuẩn loài người. Lời Thiên
Chúa đến đòi hỏi phải cắt đứt với mọi dây liên lạc tự nhiên. Thiên Chúa kể tỉ
mỉ các điều cần từ bỏ. Ngài biết khó khăn của từ bỏ đó. Abraham từ bỏ mọi thứ
ông thụ đắc để phó thác cho Thiên Chúa hướng dẫn. Đích của cuộc hành trình cũng
vô định : “ …đi tới đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Thiên Chúa yêu cầu trông
cậy tuyệt đối vào Ngài, không phân vân e ngại. Chính vì Tin vào Ngài, Lời Hứa
nên hiện thực cũng như dấu lạ sẽ xãy ra cho kẻ tin sau nầy.
-
Sẵn
sàng hy sinh Isaac.
Abraham hẳn phải khổ tâm khi nghe 1 yêu cầu tưởng
chừng phi lý: Sát tế đứa con huyết thống của mình. Tuy nhiên, lòng tin của
Abraham vào Thiên Chúa không phải là lĩnh nhận 1 đạo lý khôn ngoan, bảo đảm, an
toàn cho cuộc sống. Lòng tin Abraham đáp ứng với một ơn gọi : Tế nhận và chịu lấy sáng
kiến của Thiên Chúa. Người Thiên Chúa chọn không ngụy biện, lấy sự khôn
ngoan của con người để lấn át sự đòi hỏi của Thiên Chúa. Đó là lòng tin kiểu mẫu.
Tất cả những ai đón nhận ý định Thiên Chúa như thế, chính là dòng dõi Abraham.
Dòng dõi theo Lời Hứa của Thiên Chúa chứ không phải theo huyết thống. Ơn Cứu độ
Thiên Chúa dạm hứa cho toàn nhân loại là thế.
4.2.
ISMAEL – ISSAC .
Thiên Chúa, luôn trung thành với giao ước, chọn
đúng thời điểm thích hợp, để thực thi ý Ngài. Con người chúng ta thường lo lắng
vượt quá khả năng mình rồi hay tìm biện pháp để đạt cho được. Có lẽ câu chuyện
bà Sarah, vợ của Abraham, là một thí dụ điển hình. Thấy mình đã có tuổi mà cả
hai ông bà vẫn không con nối dõi, bà chủ động cho người hầu nữ Hagar chung đụng
với chồng, như tục lệ thời bấy giờ. Kết quả là cậu bé Ismael ra đời. Ông tổ của
người Arab ngày nay.
Tuy nhiên, con huyết thống không phải là
con Lời Hứa và Thiên Chúa chọn lựa người thừa kế Ơn Cứu Độ theo ý định thẳm sâu
của Ngài. Khi đến thời điểm thích hợp, Thiên Chúa đã cho Abraham người con do
chính Sarah sinh ra, đứa con được chọn
theo lời hứa, được đặt tên là Isaac.
Isaac là dung mạo không nổi bật trong
truyền thống Kinh Thánh lắm. Ông là gạch nối giữa Abraham – Giacóp, chỉ sự
trung tín liên tục của Thiên Chúa trong quá trình thực hiên Lời Hứa.
4.2 Dung
mạo Giacóp.
Giacóp,
điển hình cho dân Thiên Chúa chọn, như Abraham. Tuy nhiên, nơi Abraham mọi trình thuật về ơn gọi vẫn chưa thể hiện
hết ý định Thiên Chúa. Giacóp, phương thức được chọn xác định rõ hơn :
-
Gốc
của Israel xuất phát từ 12 người con của Giacóp (St 35, 23-26). Kể từ đây, con
số 12 nầy luôn biểu trưng cho toàn thể dân Chúa thời Cựu Ước, cũng như 12 tông đồ sau nầy là trụ cột cho một dân
được tái tạo mới trong Thần Khí.
-
Thiên
Chúa cho biết sự tự do lựa chọn của Ngài. Chọn con thứ, bỏ con cả. Ơn Thiên
Chúa không nhất thiết phải theo lẽ tự nhiên hay suy đoán thường tình của con
người. ( Cain- Abel, Ismael-Isaac, Êsau-Giacop… và còn nhiều trong diễn trình
lịch sử cứu độ nữa)
-
Sự lựa
chọn của Thiên Chúa diễn ra trong hoàn cảnh không lấy gì làm gương mẫu của
thường nhân : Giacóp, kẻ gạt gẫm, láu cá ( St 25; 26;27;36) ngay từ lúc sinh
ra. Trình thuật cho thấy tội lỗi loài người không cản trở được Thiên Chúa trong
ý định của Ngài. Một cách bí nhiệm, Thiên Chúa còn sử dụng cả sự khiếm khuyết tội lỗi để thực hiện ý định.
-
Vừa
chống nghịch , vừa là công cụ của Thiên Chúa, Giacóp bịp bợm đã kết nối Thiên
Chúa cách lạ kỳ, hầu như luôn đọ sức cùng Thiên Chúa. Chính vì thế Giacóp có
tên mới: Israel.
Giacóp tiêu biểu cho dân Thiên Chúa chọn.( Dnl 32, 28
; Is 65,9). Tội lỗi và Lời Hứa luôn kèm theo ơn được gọi. Con người được Thiên
Chúa dạm ban ân sủng trong sự bất toàn của mình mà Giacóp là biểu trưng đó.
4.3
Mười
hai chi tộc.
Mười hai chi tộc, thành phần của giao hiếu thánh, coi
như phát sinh từ 12 người con của Giacop. Hai bộ tộc liên minh với nhau tạo nên
mối liên lạc máu huyết giả tạo, coi nhau như anh em. Giao hiếu nầy không chỉ
riêng cho người Tiểu Á mà còn phổ biến trong các xã hội khác, ngay tại Việt
Nam.
Trên khía cạnh lịch sử, không phải tất cả 12 chi tộc
nầy đều di cư xuống Ai Cập để rồi sau nầy làm cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa.
Có nhiều bộ tộc sống rãi rác, hoạt động bán du muc… chẳng thế mà sau nầy Moshe
trốn sang Madian để ngụ cư nơi nhà người đồng chủng.
Phải nói mười hai chi tộc nầy được hình thành cách
lỏng lẽo và chỉ bắt đầu với cuộc tiến chiếm dần Canaan trong thời gian 300 năm.
Tuy nhiên, lịch sử Cứu Độ trình bày cho chúng ta mặc khải cứu độ được hình
thành qua từng giai đoạn và Thiên Chúa trung tín với Lời Hứa của Ngài với các
tổ phụ tiên khởi.
Số 12 không chỉ có trong trong Israel mà còn nơi các bộ tộc khác, sách
Sáng Thế cũng đã đề cập. Đây là con số mang tính chất tôn giáo: liên minh để
duy trì sung bái tại 1 đền thờ trung ương. Địa điểm thờ phượng, đền thờ trung
ương là mối liên kết các bộ tộc. Thời du mục là các trướng cung di động, có lúc
tại Sichem, lúc tại Gilgal, Bethel. Với cuộc định cư tại Canan, Yêrusalem trở
thành Đền thờ trung ương và đi vào lịch sử Dân Thiên Chúa.
5. CHÂN
DUNG VỊ CƯU TINH ( St 37-50)
Trong 13 chương nầy, trình
thuật giải thích cho việc di dân sang Ai Cập làm tiền đề cho cuộc Xuất hành của
Israel 500 năm sau. Giacop sang Ai Cập, người lĩnh Lời Hứa và những ai ở cùng
ông, trở thành tâm điểm của trình thuật. Những chương nầy cho thấy dung mạo sơ
khởi của vị cứu tinh qua câu chuyện cảm động của Yuse.
Yuse, con yêu của Giacop và Rachel, là cậu con ngoan
và có biệt tài đoán mộng. ( đừng vin vào các trình thuật nầy để biện minh cho
việc xem bói toán, chiêm tinh, giải mộng). Trình thuật nầy soạn giả muốn đề cập
đến sự quan phòng của Thiên Chúa cũng như ơn gọi ngôn sứ.
Tất cả mọi biến cố trong cuộc đời, đều là công cụ để
thực hiện Ý Định Cứu Độ của Thiên Chúa, bất chấp những mưu đồ bất chính. Điển
hình là cuộc đời Yuse. Cuộc mưu hại vì ganh ghét của anh em trong gia đình, sự
vu khống vì không chấp nhận thỏa mãn thói trăng hoa của bà chủ, bị bạn đồng
cảnh ngộ lãng quên, tất cả không qua được ý định của Thiên Chúa trên người tôi
trung.
Câu chuyện Yuse là chân dung đầu tiên được phác thảo
của Vị Cứu Tinh: Có những người bị anh em bách hại, trở thành nguồn Cứu Độ của anh em mình.
Nếu Yuse không nếm trãi những thử thách cay đắng, ông làm sao có thể cứu giúp
anh em thân tộc và dân chúng đói khổ? Cũng thế, theo Ý Định Cứu Độ của Đức
Chúa, Chúa Yêsu không nhập thể, chịu khổ nạn và phục sinh, làm sao con người
được giải thoát, được sống và sống dồi dào trong ân nghĩa Thiên Chúa?
No comments:
Post a Comment