ĐƯỜNG HỘI THÁNH ĐI:
NGƯỜI BẮC CẦU, NGƯỜI PHÁ CẦU
Tám
năm về trước, chuông các Nhà Thờ Roma đã ngân vang chúc mừng Tân Giáo Hoàng
Benedicto XVI. Từ ngày đó, nhà thần học suốt bao nhiêu năm chỉ được biết trong
các giới chuyên môn, phải đứng ra làm nhiệm vụ bắc cầu đến với thế giới rộng
lớn. Hôm vừa rồi, chuông các Nhà Thờ Roma lại đồng ngân vang để tiễn đưa Ngài.
Không phải là tiếng chuông trầm buồn, tưởng niệm như đối với các vị tiền nhiệm
quá cố. Vẫn cứ là tiếng chuông vui của Lòng Tin, trong lúc chiếc trực thăng
lượn vòng trên bầu trời Roma, để vào những giờ phút cuối trong sứ vụ Giám Mục
Thành Đô, Ngài nhìn lại một lần Giáo Phận của mình. Những phản ứng cuồng nhiệt
của các tín hữu từ hôm Ngài tuyên bố từ nhiệm, hơn 150.000 người tập họp tung hô
khi lần cuối cùng Ngài có cuộc gặp gỡ thường lệ hàng tuần với cộng đồng Dân
Chúa, nét mặt chìm sâu trong cầu nguyện của các nam nữ Tu Sĩ và tín hữu, giọt
nước mắt trên mặt các vị Hồng Y già như ta thấy trên các phương tiện truyền
thông, cũng như vô vàn vô số các buổi cầu nguyện trong khắp Hội Thánh, đó là
lúc những cây cầu vô hình Ngài đã bắc trong tám năm hiện hình.
I
Chính vì vậy, đứng trước
đám đông nồng nhiệt, ở quảng trường Thánh Phêrô, Ngài đã nói: “Tôi thật cảm
động vì tôi thấy Hội Thánh đang sống dạt dào”. Như thế, không có nghĩa là công
việc bắc cầu của Ngài lúc nào cũng xuôi thuận. Trái lại, trong tám năm Ngài ở
trên ngôi Giáo Tông, mỗi khi Ngài muốn bắc một nhịp cầu thì hầu như bao giờ
cũng có ngay một phản lực nào đó rất mạnh xuất hiện. Ngài muốn tạo dựng sự hiệp
thông hòa giải với nhóm siêu bảo thủ ly khai Tòa Thánh theo Giám Mục Lefebvre
chăng ? Vừa có mấy Giám Mục tấn phong trái phép trở về quy thuận Tòa Thánh, thì
một ông trong số đó lên tiếng phủ nhận các tội ác diệt chủng của nước Đức – Hitler
hồi thế chiến thứ hai, trắng trợn phủ nhận cả lịch sử bi đát một thời của thế
kỷ XX. Thế là một sự việc tự bản chất chỉ thuộc lĩnh vực Phụng Vụ và quyền bính
thuần túy tôn giáo, bị dư luận Tây Phương và Israel ồn ào đổ vấy cho các tội
gian dối phản bội Chân Lý.
Ngài lại muốn đi đến với
thế giới Hồi Giáo với tâm tình hòa bình, thì chỉ cần một câu nói trong một bài
diễn thuyết có tính cách tư tưởng hàn lâm, trích dẫn một ý tưởng của một ông hoàng
đế Byzantio thế kỷ 14, chứ không phải ý tưởng và mục đích của Ngài, thế là cả
thế giới Hồi Giáo ầm ầm nổi giận, giết thừa sai và tín hữu. Xem ra thế giới
nghiên cứu, học thuật, lý thuyết, biện chứng của các nhà học giả thật khác xa
với những hỷ nộ ái ố của thế giới đam mê. Đến nỗi một con người như Đức Hồng Y
Lustiger của Paris phải nhận định rằng:
“Chúng ta đang đối mặt với một hiện tượng do giới truyền thông khua khoắng đến
độ phi lý… Nếu thủ thuật là khuấy động hận thù của đám đông với những lời nói
mà họ không hiểu, thì không còn hội đủ những điều kiện để đối thoại với Hồi
Giáo”. Phải mấy tuần lễ sự sách động mới bắt đầu nguôi ngoai. Thật đáng tiếc
trong thế giới hiện tại đầy những chia rẽ hận thù, một sự cảm thông sâu sắc
giữa Kitô Giáo và Hồi Giáo có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng có một sự
cản phá nào đó khiến cho nỗ lực hòa bình bị đảo ngược.
Đối với tệ nạn Giáo Sĩ lạm
dụng tình dục trẻ vị thành niên cũng thế. Ngay từ trước khi lên ngôi, Đức
Benedicto XVI là người đầu tiên ở Tòa Thánh nhận thức rõ là không thể bao che
thủ phạm. Lên ngôi rồi, Ngài thẳng tay áp dụng chính sách không khoan dung,
Tolerance Zéro ! Thế nhưng chuyện gì xảy ra ? Người ta đào xới được một chuyện
cũ trong Giáo Phận của Ngài ngày xưa, dù Ngài không phải là người thụ lý, rồi
kêu ầm ỹ là Ngài bao che ! Có cả những anh ở nơi xa tít tắp đòi kiện Ngài ra
tòa. Bao nhiêu sự bao che mới cũ đổ lên đầu Ngài, làm như thể Ngài là thủ phạm
không bằng ! Khó lòng mà phân biệt rõ được trong những sự ầm ỹ đó đâu là nỗi
đau thật, uất ức thật của các nạn nhân, và đâu là ác ý của những ai đó được dịp
tốt thì nhảy vào đánh hôi ! Dù Ngài đã tỏ thái độ dứt khoát, đã đích thân gặp
gỡ các nạn nhân, nói lời xin lỗi, bày tỏ sự hổ thẹn, người ta vẫn cứ nặng lời
tố cáo Tòa Thánh bao che. Thôi thì như Việt Nam ta nói: con dại cái
mang… Một lần nữa, người vô tội nhất trong vụ này lại làm con chiên gánh tội
trần gian.
Thế
rồi, đến chuyện tiền bạc, tài chính của Giáo Hội. Giáo hội tất nhiên là có tiền
( mặc dù có nhiều năm bội chi ). Tiền đó là của thập phương bá tánh tự nguyện
đóng góp và Tòa Thánh phải quản lý, đầu tư… để dùng chủ yếu vào việc tông đồ
bác ái. Dần dần tình hình tài chính quốc tế phát triển thì sự quản lý càng lắm
ngõ ngách phức tạp, càng có nguy cơ tiền bạc bị lạm dụng sai mục đích, trở nên
cám dỗ cho ai đó… Đức Thánh Cha Benedicto XVI lại cũng là người dứt khoát đòi
hỏi tài chính Vatican
phải tuân thủ mọi tiêu chuẩn quốc tế về sự công khai, trong sáng. Lại một lần
nữa cái gì xảy ra ? Cái xảy ra nằm ngay trong nội bộ Giáo Triều, trong những
người làm việc ở Tòa Thánh. Có những quyền lợi nào đó bị đe dọa, có những mâu
thuẫn do đó nảy sinh, có những đấu tranh ngấm ngầm. Rất nhiều khó khăn rắc rối,
người ngoài cuộc chẳng ai nắm rõ thực chất và chi tiết thế nào. Chỉ biết rằng
vết tích lộ ra trong những vụ tài liệu mật của Đức Giáo Hoàng bị rò rỉ. Những
thư đệ trình cho một mình Ngài bị lấy cắp và phơi bày trên mặt báo. Rồi những
thay đổi nhân sự gay gắt ở Ngân Hàng Vatican !
Thế là những cố gắng của Đức Giáo Hoàng để đưa hoạt động kinh tài của Tòa Thánh
vào nề nếp chuẩn mực bị lãng quên, người ta chỉ thích ồn ào về những giao dịch
gọi là đen tối hắc ám nào đó mà chẳng ai nắm rõ đầu dây mối nhợ.
II
Xin được suy nghĩ đặc
biệt về một vụ phá hoại nữa đối với Đức Benedicto XVI: vụ Trung Quốc.
Năm 2007, Đức Benedicto
viết bức thư về Giáo Hội tại Trung Quốc. Mục đích là để giải quyết một tình
trạng ngang trái đã kéo dài hơn nửa thế kỷ. Từ 1949, Mao Trạch Đông đã làm bá
chủ toàn cõi Trung Quốc. Với kiểu làm cách mạng cực đoan của Mao, đáng lẽ tiêu
hủy hoàn toàn Giáo Hội tại Trung Quốc mới phải. Nhưng đó là điều không thể. Nên
một mặt Mao cho lập ra Giáo Hội Tự Trị, không nhận quyền Tòa Thánh, mặt khác
đàn áp tàn bạo những ai không chấp nhận Giáo Hội Tự Trị. Từ đó Giáo Hội ở Trung
Quốc chia đôi. Những người Công Giáo toàn vẹn bắt đầu một kiếp sống “hầm trú”.
Những ai chấp nhận Giáo Hội Tự Trị thì có một chỗ đứng công khai vừa đủ để thoi
thóp.
Phải công nhận một điều:
trong số những người lãnh đạo Giáo Hội Tự Trị, không phải chỉ toàn những người
tình nguyện làm tay sai. Có những người đứng trước áp lực quá sức to lớn của cả
lục địa Trung Hoa trên cộng đồng Công Giáo quá thiểu số, đã nghĩ là đành phải
chấp nhận tình trạng ấy để Giáo Hội khỏi bị tiêu diệt. Nhiều người khác thì
tham sống sợ chết nên đành theo Giáo Hội Tự Trị, nhưng trong lòng vẫn ý thức sự
sai trái của mình, khắc khoải muốn trở về hiệp nhất nhưng không dám. Chính
trong bối cảnh ấy mà đã có một vài Giám Mục đành lòng đứng ra phong chức cho
các Giám Mục mới của Giáo Hội Nhà Nước. Nhu cầu tâm linh đã chứng minh sức sống
của mình khi mà cả cuộc Cách Mạng Văn Hóa khủng khiếp ( 1966 – 1976 ) chẳng
những đã không quét sạch được tôn giáo theo ý muốn điên khùng của Mao mà còn
làm cho nhu cầu tôn giáo tăng lên. Cách Mạng Văn Hóa vừa tàn phai, các tôn giáo
liền có đất nảy nở.
Tình hình có hai Giáo
Hội Công Giáo song song: Giáo Hội quốc doanh và Giáo Hội “hầm trú”, vào lúc
Trung Quốc không còn là một chốn kín bưng với thế giới bên ngoài, càng ngày
càng lộ rõ tính cách bất bình thường. Những ai có dịp tiếp xúc với các tín hữu
Trung Quốc đều nhận thấy rất nhiều Giáo Sĩ, Tu Sĩ của Giáo Hội Tự Trị vẫn mong
chờ được trở về hợp nhất, còn đông đảo Giáo Dân của họ thì chỉ chân thành tìm
một chốn để cầu nguyện và sống Lòng Tin vào Chúa mà thôi. Đồng thời Cách Mạng Văn
Hóa đã tạo nên trong lòng nhiều người trước đó vô tôn giáo một cơn khao khát
tâm linh làm xuất hiện những tông đồ mới. Có những doanh nhân Trung Quốc tự
nguyện tổ chức rao giảng Tin Mừng và phượng tự cho các công nhân của mình…
Tòa Thánh, từ thời Đức
Gioan XXIII, đã có nhiều động thái kêu gọi nhóm ly khai trở về. Bức Tông Thư
công bố vào thời điểm 2007 bày tỏ sự quý trọng của Hội Thánh với Trung Quốc, và
kêu gọi Dân Chúa thống nhất trong Đức Tin và Đức Mến. Kết quả bước đầu thấy rõ,
mặc dù chính quyền Trung Quốc phản đối, một số Giám Mục “quốc doanh” đã quy
thuận Tòa Thánh. Nhiều Linh Mục, mặc dù được Giáo Hội quốc doanh đề nghị lên
chức Giám Mục, chỉ nhận lời thụ phong sau khi được Đức Giáo Hoàng cho phép. Nếu
tình hình này tiếp diễn, có thể nói trong khoảng từ 10 đến 15 năm sẽ không còn
tình trạng hai Giáo Hội tương phản, một Giáo Hội Trung Quốc thống nhất sẽ hồi
sinh và hoàn toàn hòa nhập với Hội Thánh Hoàn Vũ. Đó sẽ là một biến cố rất lớn
cho Giáo Hội toàn vùng Á Đông, và có thể tạo ra một tình hình mới cho Giáo Hội
Toàn Cầu.
Một dự phóng lớn đến như
vậy tất yếu sẽ có người cản phá. Và những người quyền thế chủ trương phá vỡ sự
hiệp thông của Công Giáo Trung Quốc với Tòa Thánh Phêrô đã tung ra những đòn ác
liệt. Họ liên tiếp tấn phong những Giám Mục mới không cần Tòa Thánh cho phép,
họ cưỡng bức nhiều Giám Mục mới về quy thuận Tòa Thánh phải tham gia vào hiệp
thông trong lễ phong chức các Giám Mục ly khai; họ giam cầm, sách nhiễu tàn bạo
những người khẳng khái nói lên lòng trung thành với Đức Thánh Cha là trung tâm
hiệp nhất. Tóm lại, càng xuất hiện những khả năng đưa đến hiệp nhất thì càng
phải tạo thêm nhiều nguyên cớ để chia rẽ. Đường đến hiệp nhất bây giờ không
ngắn nữa mà đã trải dài không biết đến tận đâu. Nhưng một điều chắc chắn là dù
ngắn hay dài thì đối với người Công Giáo chỉ có một đường, một hướng để đi đến
hiệp nhất. Đó là đường Đức Benedicto XVI đã chỉ ra. Những sự chống đối cản phá
là cho con đường thêm phần lên thác xuống ghềnh, thêm phần hiểm nghèo chông
gai, nhưng không thể thay đổi được hướng đi tất yếu.
Nếu ta nhìn xa một chút
vào lịch sử Giáo Hội, thì thấy những gì Đức Benedicto XVI làm cho Trung Quốc
không phải là không có tiền lệ. Đầu thế kỷ thứ XIX Đức Giáo Hoàng Piô VII cũng làm một điều tương
tự đối với Giáo Hội Pháp. Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã phá tan tành một Giáo Hội
Công Giáo hàng đầu. Từ đó cũng có một Giáo Hội nhà nước và một Giáo Hội hầm
trú. Đến khi xã hội Pháp đã đi tới tận cùng của sự bát nháo phải trả giá bằng
rất nhiều máu và nước mắt, và người ta thèm muốn tìm kiếm sự ổn định vật chất
và tinh thần với người hùng Napoléon Bonaparte, Đức Giáo Hoàng Pio VII với sự phụ tá tuyệt vời
của Đức Hồng Y Consalvi đã táo bạo nhúng tay giải quyết các vấn đề tồn tại phức
tạp ở Pháp. Kết quả là một Giáo Hội lớn đã phục hưng. Mặc dù đó là một quá
trình dài đầy gian nan khổ ải, Đức Pio VII và các Hồng Y Roma có
lúc bị Hoàng Đế Napoléon giam giữ, bắt đi lưu vong ở Pháp mất gần chục năm,
nhưng cuối cùng đã thành công rực rỡ.
Cũng
lại ở Pháp cuối thế kỷ XIX có một tiền lệ về việc người ta cản phá Giáo Hội,
góp phần làm thất bại đường lối sáng suốt của Tòa Thánh. Từ năm 1878, chính
quyền của Cộng Hòa Pháp đã rơi vào tay của những người muốn bài trừ Hội Thánh.
Đa số trong Giáo Phẩm và Giáo Dân Pháp lại chủ trương Bảo Hoàng, để chống lại
phe Cộng Hòa kia. Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã thấy rõ nền quân chủ ở Pháp đã
thuộc về quá khứ, không thể phục hưng được. Do đó Đức Thánh Cha yêu cầu Công Giáo
Pháp đừng bám lấy ngôi vua một cách vô vọng, nhưng hãy chấp nhận những quy luật
của chế độ Cộng Hòa Đại Nghị, tranh đấu một cách dân chủ để bảo vệ Giáo Hội.
Phe chống đạo thấy ngay nếu Công Giáo Pháp đi theo khuyến dụ của Đức Giáo Hoàng
Leo XIII thì họ có khả năng giành được đa số trên nghị trường. Để ngăn ngừa sự
thể đó, phe chống Công Giáo càng gia tăng những biện pháp gay gắt chống phá
Giáo Hội, để tạo ra sự chống đối quyết liệt giữa Công Giáo và chính thể Cộng
Hòa. Những biện pháp đàn áp Công Giáo một cách khốc liệt được ban hành. Đức
Giáo Hoàng Leo XIII đã qua đời mà không nhìn thấy ước mơ của Ngài về một Giáo
Hội Pháp hòa nhập được với kỷ nguyên dân chủ. Phải hơn nửa thế kỷ và hai cuộc
thế chiến đẫm máu Công Giáo Pháp mới đạt được tư thế như Đức Leo XIII mong ước.
Xem ra Đức Benedicto
XVI, cũng như Đức Leo XIII, sẽ không được thấy ước mơ của Ngài về Giáo Hội Trung
Quốc trở thành hiện thực trong thời gian Ngài tại thế. Tôi có dài dòng hơn về
vấn đề Trung Quốc, vì đó là vấn đề sát sườn với Việt Nam và Đông Á nói chung. Lẽ
ra đây là một vùng với những truyền thống tâm linh và văn hóa thâm hậu, có thể
góp phần quý giá cho Hội Thánh trước những vấn đề khó khăn của thời đại. Tiếc
thay, hoàn cảnh trong ngoài về chính trị, xã hội, tâm lý chưa cho phép được sự
phát triển đó. Cũng như trong các vấn đề khác đã nêu trên kia, trong vấn đề
Giáo Hội tại Trung Quốc, Đức Benedicto XVI đã muốn bắc một cây cầu lớn, và đã
có những người ra sức phá cầu.
Sau khi Đức Thánh Cha
thoái vị, Đức Hồng Y Trần Nhật Quân ( Ảnh chụp bên phải ), nguyên Giám Mục Hồng
Kong, đã nhận xét: “Đức Benedicto XVI là một vị Đại Giáo Hoàng, một người yêu
chân lý. Thiên Chúa là chân lý và con người không thể sống mà không có chân lý.
Bất hạnh thay, ngày nay chân lý không phải là cái “hợp thời trang”; cái đang
thực sự chế ngự ngày nay, là cái mà Đức Benedicto XVI đã gọi là “nền chuyên
chính của chủ nghĩa tương đối…” Ngài đã luôn vững tay lái hướng Giáo Hội theo
chân lý… Đó là phần đóng góp của Ngài cho văn hóa thế giới và cũng cho Trung
Quốc nữa” và ở đây, Đức Hồng Y nhắc đến bức thư Ngài gửi Giáo Hội Trung Quốc
năm 2007.
Tóm
lại, từ chuyện nội bộ Giáo Hội cho đến tín hiệu gửi bên ngoài, trong tám năm ở
ngôi, Đức Benedicto XVI kiên trì bắc những cây cầu tìm đến những bến bờ trong
sáng, hiệp thông, hòa bình. Và thế gian cũng kiên trì không kém, bằng đủ kiểu
đủ cách, mỗi lần lại ra sức phá cây cầu. Không biết trong lòng Ngài cảm thấy
thế nào, chỉ biết cụ già ấy vẫn một giọng nói ôn tồn, nhỏ nhẹ đều đều, cứ nhất
mực bình tĩnh đi về hướng mơ ước. Hình như trong sứ mệnh của Ngài có cả nhiệm
vụ minh họa một dụ ngôn của Chúa Giêsu: “Ta phải ví thế hệ này với ai ? Họ như
lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau nói rằng: tụi này thổi sáo sao đằng ấy không
nhẩy múa; tụi này hát bài đưa đám, sao đằng ấy không khóc than ?” ( Lc 7, 31 – 32
).
Đức Benedicto XVI là
người gieo mầm cho ai khác gặt.
Nguyên nhân sâu xa của
sự trạng ấy là vì Ngài sống trong cõi thanh sáng của Thiên Chúa là tình yêu và
niềm vui của Đức Tin, còn thế gian thì còn mải mê những chuyện ăn thua đủ về
tình, tiền, quyền lực. Cùng nói những âm thanh giống nhau, mà thực ra ngôn ngữ
và ý nghĩa lại khác nhau. Nhưng Ngài không nản lòng, vì Ngài thấy rõ sớm hay
muộn rồi người ta cũng phải tìm đến và đối diện với sứ điệp của Ngài. “Nước
Thiên Chúa giống như chuyện một người gieo hạt giống vào lòng đất. Đêm ngày,
người ấy ngủ hay thức, hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào người ấy
không biết. Đất tự động sinh ra hoa mầu, cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và
sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt vàng” ( Mc 4, 28 – 28 ).
VŨ KHỞI PHỤNG, 3.2013
Kỳ sau: Khi người bắc cầu sang
bờ bên kia
No comments:
Post a Comment