Khi ấy,
các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người
giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Đức Giêsu bèn kể cho họ một
loạt ba dụ ngôn, trong đó, dụ ngôn dài nhất chính là câu chuyện về người cha và
hai người con mà Hội Thánh đọc hôm nay ( Lc 15, 11 – 32 ). Trong bài
suy niệm này, chúng ta sẽ tập trung chú ý vào cách hành xử đầy lòng yêu thương
nhân hậu của người cha đối với người con hoang đàng ( cc. 11 – 24 ).
“Một
người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con
phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày
sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa” ( cc. 11
– 13a ). Phần thứ nhất của câu chuyện mô tả việc cậu con trai thứ rời xa cha
mình. Tuy nhiên, cần phải nói ngay rằng sẽ là sai lầm nếu coi việc cậu xin chia
gia tài và lên đường đi xa là dấu hiệu của một sự xuống cấp về đạo đức. Người
con trai thứ này lên đường không phải trong tư thế một đứa con phản loạn, mà là
trong ước muốn sống độc lập ở phương xa. Thực tế tại xứ Palestina đương thời
cho thấy có rất nhiều người buộc phải di cư đến các xứ sở khác để sinh sống. Trong
khi dân số Do Thái ở Palestina khi ấy không quá nửa triệu người, số người Do
Thái ở hải ngoại là hơn 4 triệu. Vì thế, việc người con thứ trẩy đi phương xa
là một việc dễ hiểu đối với các thính giả của Đức Giêsu và các độc giả của
Thánh Luca. Đàng khác, cũng là bình thường việc người con trai thứ, vì không
phải là con trưởng, đi tìm một vận may xa xứ. Đối với người nghe là người Do
Thái hay người Hy hoá, vấn đề chia của thừa kế như trong câu chuyện này cũng là
điều dễ hiểu. Trong dụ ngôn, người cha cũng chẳng ngăn cản gì người con thứ, trái
lại, ông còn thực hiện đúng như anh ta xin. Ông tuyệt đối tôn trọng tự do của
con trai mình.
Anh con trai đã gom góp tất cả của cải phần mình và trẩy
đi phương xa. “Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” (
c. 13b ). Tình cảnh bi đát và đáng phàn nàn bắt đầu từ đây: anh sống phóng đãng
và phung phí tài sản. Câu 30 sẽ nói rõ: anh ta phung phí tài sản với bọn điếm.
Anh sống vô luân. Anh sử dụng tài sản thừa kế ( không phải do anh làm ra ) một
cách phung phí và phóng đãng. Anh tiêu sạch mọi thứ mà cha đã cho anh. Anh lâm
vào một tình trạng bi thảm về đạo đức và bi đát về xã hội. Và tình hình càng
trở nên bi thảm do bởi một yếu tố khách quan: “Khi anh ta đã ăn tiêu hết
sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu
lâm cảnh túng thiếu” ( c. 14 ).
Và
chính từ điểm này, anh bắt đầu rời xa Lề Luật và tôn giáo của dân tộc mình. “Anh
ta đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo”
( c. 15 ). Anh ta ở đợ cho một người ngoại ( người này là ông chủ đàn heo, nên
chắc chắn không phải là người Do Thái ), và như thế là luôn luôn ở trong tình
trạng ô uế xét theo quan điểm người Do Thái. Ông chủ sai anh đi chăn heo. Đối
với người Do Thái, heo là loài thú vật hết sức ô uế ( x. Lv 11, 7: “Con heo,
vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là
loài ô uế” ) và người Do Thái coi kẻ chăn heo là kẻ bị chúc dữ. Vậy, tình
cảnh tôn giáo của người con thứ đã trở nên hết sức tồi tệ. Nhưng chưa hết: “Anh
ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho” ( c.
16 ). Thậm chí heo còn được coi trọng hơn anh ta !
Rõ ràng
là không thể có hình ảnh nào “đắt” hơn để diễn tả tình trạng xuống cấp bi đát
của người con thứ xét về phương diện tôn giáo cũng như xã hội. Tình trạng bi
đát đó xảy đến khi anh lưu lạc nơi một xứ sở xa xăm. Các chi tiết miêu tả đều
rất đáng chú ý, nhắc chúng ta nghĩ đến những đường nét chính yếu trong thân
phận của những kẻ tội lỗi: cuộc trẩy đi phương xa như gợi ý về cuộc đi xa khỏi
Thiên Chúa; tình cảnh túng thiếu và khốn cùng gợi ý về sự đánh mất vinh quang
của con người – hình ảnh của Thiên Chúa; sự thường xuyên tiếp xúc với đàn heo, những
con vật ô uế ( theo nghi tiết ), là biểu tượng cho sự chết mà kẻ tội lỗi phải
chịu.
Người con hoang đàng đã rơi xuống đáy vực thẳm, và “bấy
giờ anh ta hồi tâm” ( c. 17a ). Đó là điểm khởi đầu của cuộc hoán cải. “Anh
tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở
đây lại chết đói!” ( c. 17b ). Trong tình trạng đau khổ và cô đơn tột cùng,
anh độc thoại, một mình nói với chính mình. Anh không dám nghĩ đến tư cách là
con của mình, mà chỉ dám so sánh mình với người làm công của cha mình. Đứa con
đi hoang bắt đầu thấm thía sự mất mát lớn lao của mình.
Anh
tiếp tục tự nói với mình: “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với
người: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là
con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” ( cc. 18 – 19
).
“Thưa
cha, con thật đắc tội”: Ta gặp thấy ở đây như âm vang lời thú tội mà ngôn
sứ Giêrêmia đã đặt trên miệng Ephraim: “Sau khi phạm tội, con hối tiếc ăn
năn. Sau khi đã hồi tâm, con đấm ngực tự giác. Con xấu hổ thẹn thùng, vì mang
nỗi nhục nhằn của tuổi thanh xuân” ( Gr 31, 19 ). Cậu con trai hoang đàng
đã ý thức về tội lỗi của mình. Anh quyết định trở lại với cha, cho dù anh biết
rõ mình không còn chút quyền làm con của cha. Anh chỉ còn mong một điều: được
đối xử như một người làm công. “Con chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin
coi con như một người làm công cho cha vậy”. Tâm trạng của người con hoang
đàng lúc này rõ ràng là tình cảnh của một tội nhân không xứng đáng tiến dâng hy
lễ ( x. Lc 18, 13: “Người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám
ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin
thương xót con là kẻ tội lỗi” ), một chỉ còn biết chờ đợi lòng trắc ẩn của
người khác. Anh không dám chắc cha mình sẽ đối xử thế nào khi nhìn thấy tình
cảnh hoàn toàn trống rỗng của anh.
“Thế rồi anh đứng lên đi về
cùng cha” ( c. 20a ). Anh bước vào giai đoạn
thứ hai của cuộc hoán cải: thực hiện trong thực tế những suy nghĩ và quyết định
của mình.
Câu chuyện đột ngột chuyển sự tập trung chú ý vào cách
hành xử của người cha. Kể từ lúc này, những hành động của ông sẽ chiếm vị trí
chính yếu. “Anh còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng
thương, chạy ra ôm cổ và hôn anh thắm thiết” ( c. 20b ). Tất cả đều là sáng
kiến của người cha. Và tất cả đều cho thấy tình yêu nhưng không và mãnh liệt mà
ông dành cho người con hoang đàng. Ông thấy người con từ khi anh
còn ở đằng xa; ông không đặt vấn đề tại sao cậu quay về, vì chưa bao giờ ông
hết yêu thương cậu con trai thứ của mình, trái lại luôn luôn mong mỏi được gặp
cậu. Ông chạnh lòng thương cậu. Động từ “chạnh lòng thương” vốn
là động từ đặc biệt để diễn tả tâm tình của chính YHWH đối với người nghèo và
của chính Đức Giêsu đối với những con người khốn cùng ( Mc 1, 41; 6, 34; 8, 2;
Lc 7, 13; xem thêm Lc 10, 33 ). Ông chạy ra, cho dù đây là một
hành động không phù hợp với tuổi tác, vị thế và uy quyền của ông. Ông ôm
cổ cậu con trai và vì vậy ông đã ngăn cản không cho cậu kịp quỳ mọp
xuống dưới chân ông. Ông hôn cậu thắm thiết, dấu chỉ của sự tha
thứ và thông hiệp sâu xa, bất chấp tình trạng ô uế của một anh chàng chăn heo
thường xuyên tiếp xúc với giống vật ô uế và với những người ngoại bị coi là
không thanh sạch theo quan điểm của Lề Luật.
“Bấy
giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa…” ( c. 21 ). Người con cất tiếng thưa với cha
những điều anh đã chuẩn bị và suy nghĩ từ rất lâu. Nhưng anh đã không nói: “Xin
cha coi con như một người làm công cho cha vậy” như anh đã từng dự định sẽ
nói. Tại sao ? Chắc chắn không phải vì anh không có thời gian để nói, bởi lẽ
cha anh hẳn sẽ rất kiên nhẫn nếu không nói là vui sướng được nghe anh nói, dù
anh nói bất cứ điều gì. Thực ra, anh không thể nói phần cuối cùng của những lời
đã chuẩn bị, vì những gì người cha vừa làm cho anh đã khiến cho những lời ấy
không còn phù hợp.
Như để
đáp lại lời xưng thú của người con hoang đàng, người cha quay sang bảo với các
đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ
dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn
mừng !” ( cc. 22 – 23a ).
Trước
hết, người cha truyền lệnh thực hiện ba hành vi mang tính biểu tượng, chứng tỏ
người cha phục hồi cho người con hoang đàng quyền tự do và quyền làm con mà anh
ta đã đánh mất. Chiếc áo đẹp nhất là chiếc áo choàng lễ hội ( stolê ) chứng
tỏ phẩm giá cao quý của người mặc nó; chiếc nhẫn mang ấn cho thấy người con đã
được phục hồi tư cách làm con và có quyền bính trên gia nhân trong nhà; đôi dép
là dấu hiệu của một người tự do ( vì nô lệ không được mang dép ).
Tiếp đó, ông ra lệnh bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở
tiệc ăn mừng. Con bê đã được vỗ béo ( chứ không phải chỉ là con bê béo trong
đàn gia súc ) là con bê được chuẩn bị cho ngày đại lễ. Bữa tiệc ăn mừng này
đánh dấu sự hợp nhất vừa tìm lại được của gia đình. Bữa tiệc là dấu hiệu của
niềm hân hoan và của sự thông hiệp. Niềm vui được chia sẻ và nhân rộng.
Người
cha tuyên bố lý do của ba hành động biểu tượng và của việc tổ chức bữa đại tiệc
như sau: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”
( c. 24 ). Việc người con hoang đàng trở về được người cha nhân hậu coi là một
sự kiện rất quan trọng và có ý nghĩa đối với ông: ông coi đó là một cuộc hoàn
sinh đứa con đã mất.
Tác giả sách Tin Mừng muốn gửi đến chúng ta một
số thông điệp quan trọng:
1. Qua
hàng loạt chi tiết rất cảm động nơi hình ảnh và hành động của người cha nhân
hậu, câu chuyện muốn khắc hoạ cho chúng ta dung mạo đặc biệt của Thiên Chúa. Thiên
Chúa yêu mến những con người tội lỗi bằng một tình yêu tuyệt vời. Người
như thể quên mất phẩm giá và tư thế uy nghi của Người. Sự nhân lành của Người
đã được thi thố qua những dáng vẻ, thái độ và hành xử rất “yếu đuối”. Người
tuyệt đối tự do trong việc diễn tả sự siêu việt và tình yêu thẳm sâu của Người
nơi những cách hành xử có vẻ yếu đuối ấy. Nhưng chính tình yêu ấy đã là yếu tố
quyết định làm cho người con hoang đàng “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại
tìm thấy”.
2. Theo
cách hiểu thông thường đương thời, hối cải bao hàm nỗ lực của con người ( ăn
chay, bố thí, hãm mình khổ hạnh ) để chứng tỏ sự nghiêm túc của tâm tình ăn năn
sám hối. Đối với Đức Giêsu, hối cải chính yếu là một niềm hoan lạc trào
vọt lên từ cuộc hạnh ngộ với chính Thiên Chúa là Đấng luôn ban ơn tha thứ.
3. Trong
dụ ngôn về người cha nhân hậu và người con hoang đàng trở về này, tác giả Tin
Mừng quả thật đã có đề cập đến tình trạng bi thảm của người tội lỗi và những
bước cần thiết của cuộc hoán cải: hồi tâm và hướng lòng về với Thiên Chúa. Nhưng
con người không thể tự cứu độ chính mình, như người con hoang đàng không thể tự
phục hồi phẩm giá của mình và quyền làm con mà mình đã đánh mất. Chính
Thiên Chúa là Đấng tha thứ và phục hồi phẩm giá cho con người. Phần
mình, khi mở ra hướng về với Thiên Chúa từ vực thẳm khốn cùng của mình, con
người đang sẵn sàng để cho Thiên Chúa cứu độ bằng ơn tha thứ, ơn cho làm con
của Người và ơn được hiệp thông sâu xa với Người.
Lm. NGUYỄN THỂ
HIỆN, DCCT
No comments:
Post a Comment