PHAOLÔ và cuộc đời thường
Khởi từ Galát
Phần 1
Thư Galát
Người Galát lâu nay vẫn sinh
sống ở vùng phía Bắc nước Thổ Nhĩ Kỳ. Họ đến lập nghiệp từ các bộ lạc ở xứ miền
Tô Cách Lan và tập trung sinh hoạt ở vùng mạn ngược. Người Galát vốn là sắc tộc
rất khoẻ mạnh, tráng kiện và khó bị người khác kềm chế. Tôn giáo mà họ đi theo
và sinh hoạt phượng thờ là đạo thờ kính “Thánh Mẫu của thần linh”, tức Nữ thần
Cường Lực của miền thượng du, ở nơi ấy. Nhưng, người mà nữ thần này sung bái và
chỉ muốn làm nô lệ cho ông, tức Attis ngẫu thần không râu, trẻ trung, nhưng yêm
hoạn dù rất mực trai tráng. Ông là loại người lý tưởng của những người ở đây;
và, những người này bận tâm lưu ý mỗi đôi chút đến Do thái giáo, mà thôi. Họ
cũng đã nghĩ về tục lệ cắt bì của Do thái và coi việc này hơi giống như thói
tục mến mộ Attis, thôi.
Người Do thái từ xứ miền
Antiôkia cũng hỗ trợ chuyện này, rất mạnh. Nhưng, thánh Phaolô lại vẫn khẳng
khái cự tuyệt và luôn nói tiếng KHÔNG về việc ấy. Thanh-nhân còn bảo: Đạo của
Chúa không dính dấp gì đến lối hành đạo theo kiểu cách của người thượng du/sắc
tộc trong đó có cả việc hành đạo như kiểu người Do thái từ “núi Sion” ở
Giêrusalem! Kết cuộc là, thánh-nhân và những người theo chân ông đều bị người
Do thái ở đây coi như đáng bị nguyền rủa và bất hợp pháp. Thánh Phaolô đã phản
bác lập luận này bằng cách nói rằng: chấp nhận bị nguyền rủa là cái giá của tự
do. Bởi, nếu ta đứng ở ngoài vòng luật pháp thì pháp luật là gì có quyền uy/sức
mạnh đặt để trên ta.
Thế nên, thanh tẩy là nghi
thức khai tâm/hành đạo để ta có thể đi vào với Đức Kitô chịu đóng đinh. Chính
đó, là việc gột rửa mọi tì vết nhơ nhớp để ta có thể đi vào với mọi nguyền rủa
và tự do, cùng một lúc. Việc này đã khiến tín hữu Đạo của Chúa được giải toả
khỏi mọi luật của tôn giáo cùng văn hoá, văn minh rất con người. Nếu thế thì,
tín hữu Đạo Chúa buộc phải sống trong tự do đích thực, ngõ hầu có thể đối
đầu/trực diện với những người muốn giới hạn mọi chuyện. Sống như thế, là đi vào
với sự sống có phục sinh/trỗi dậy. Phục sinh/trỗi dậy đây, không là sự việc xảy
đến rất bất chợt, mà là sự thể diễn tiến về lâu về dài. Đó, cũng không là động
thái Chúa làm chỉ một lần rồi thôi, nhưng là cả một quá trình tiến hoá, qua đó
Thiên Chúa và những người không bị rang buộc, đã cùng nhau hợp tác trong sinh hoạt
để biến cải mọi người, dù họ là ai đi nữa. Dù, họ có quan điểm nào khác biệt,
cũng mặc. Tác giả H. D. Betz lại cứ quan niệm thư Galát là “một trong các tài
liệu/văn bản quan trọng vào bậc nhất” đối với con người.
--------------
“Tôi đã cùng bị đóng đinh thập giá với Ðức Kitô. Tôi
sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. (Gal 2: 20)
Galata
Bằng vào các công trình do
ông từng thực hiện ở Galata và các thư tín do ông ghi, thánh Phaolô lại đã đạt
tới giai đoạn am hiểu tường tận lối sống có phục sinh/trỗi dậy. So với thị kiến
ông có được ở Galata, thì những gì ông cảm nghiệm nơi người dân thành
Thessalônikê và Philípphê chỉ là những chuyện khá sơ đẳng, thôi.
Có thể nói: không có gì chứng
thực một cách rõ rệt rằng Galata là nơi thánh Phaolô từng sinh hoạt rất nổi cộm;
là cộng đoàn do ông thiết lập và là dân thành ông gửi thư, có đích thực là của ông không? Cụm từ “người Galát” cũng chỉ
là cụm từ nói về bộ tộc Gallic, tức những người xứ Gal và Tô Cách Lan. Nhưng có
điều chắc, là: những người này là Do thái từng sinh sống ở vùng Tiểu Á, một vài
đời. Vào thời của thánh Phaolô, cụm từ “Galata” được sử dụng để chỉ cả về nhóm
sắc tộc lẫn khu vực hành chánh trực thuộc quyền kiểm soát của người La Mã.
Nói theo tính cách hành chánh
quản trị, thì luôn luôn có khác biệt rõ rệt giữa hai miền Bắc và Nam Galata.
Xem ra, “người Galát” là nhóm sắc tộc đến từ vùng Bắc bộ miền Tiểu Á, tức Thổ
Nhĩ Kỳ bây giờ; và họ cũng nối kết theo cung cách nào đó, với nhóm sắc tộc
người Tô Cách Lan. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các bộ tộc Tô Cách Lan
vẫn lang thang chinh chiến rày đây mai đó, đều đã về tập hợp ở trung bộ và Bắc
bộ của Galata. Họ có cùng một nguốn gốc sắc tộc như người Ái Nhĩ Lan, vậy.
Trong quá trình lịch sử, họ từng bị người Hy Lạp hơn một lần đánh bại. Và chỉ
một ít người trong số họ là lưu lại sống ở trong vùng. Kể từ đó, người gốc Tô
Cách Lan lại đã trở thành “người Galát”.
(x. The Dying Gaul, a statue in the
Capitoline Museumn Rome, the original of which is bronze in Pergamum. He is on his
last leg!) Đây là ngiên cứu về những người sống như thế, song song với các
nghiên cứu khảo sát về sự “dẫy chết” của Đạo Công giáo Ái Nhĩ Lan đối với nền văn
hoá Úc)
Ở Galata, cũng lại thấy nhiều
người Do thái sống ở đó và rất nhiều cư dân Galát cũng từng có cảm tình với
người Do thái mà không bị buộc phải trải qua thủ tục “cắt bì” và buộc phải tuân
giữ luật Torah, của Do thái. Và, thánh Phaolô đã hoạt động cho cả người ngoại
giáo lẫn người Do thái ở Galata.
Tác giả J. Dunn cũng từng
quan niệm về cuộc tranh luận để xem thánh Phaolô hoạt động thế nào và ghi thư
ra sao cho nhóm người nào đó, vẫn là vấn đề chưa có câu giải đáp, kết cuộc. Xem
ra tác giả này nghiêng về nhóm bạn đạo ở vùng phía Nam Galata. Trong khi đó,
tác giả Crossan và Reed lại cho rằng: hiển nhiên phải là vùng bắc bộ, mới đúng.
Bởi, nếu thánh Phaolô ghi thư cho cộng đoàn tín hữu ở vùng phía Bắc, thì thư ấy
phải được viết vào giữa thập niên ’50, sau Công nguyên. Ngược lại, nếu thư này
được ghi cho người ở vùng phía Nam thì phải được viết sớm hơn, tức vào các năm
48 hoặc 49, sau Công nguyên; và như thế, thì thư này sẽ là thư đầu tay của
thánh Phaolô, không thể sai. Trong tinh thần của biên khảo này, tôi chọn giả
thuyết 2, tức: thư từ giao dịch là giao dịch với cộng đoàn ở phương Bắc. Một số
tác giả khác lại vẫn cho rằng thư Galát được viết vào thời kỳ sau thư thứ nhất
Côrinthô, nhưng trước thư thứ hai gửi giáo đoàn ở Côrinthô này. Một số vị khác
lại cho rằng thứ thứ hai Côrinthô đoạn 10-13 có trước thư thứ hai Côrinthô từ
đoạn 1-9, còn thư Galát được vào giữa hai thư trên.
Cũng nên xem xét cung cách
hành đạo của các tín hữu này, mới có được quyết đoán đúng đắn. (x. Susan
Elliott, Cutting Too Close for Comfort: Paul’s letter to the Galatians in
its Anatolian Cultic Context, Journal for the Study the New Testament Supplement Series 248,
Sheffied Academic Press, 2004)
Elliott cũng lưu ý người đọc
về cảnh tình đặc biệt của người Anatolian ở miền Bắc Galata. Người ngoại giáo ở
địa phương này, tức những người ngoại đạo, người Gals và Tô Cách Lan đều thực
hành thờ cúng “Thánh Mẫu các thần linh”. Đó không là thờ cúng thần mắn đẻ. Ở
đây, cũng nên chú ý đến giai thoại bảo rằng: theo lịch sử, thì có nhiều ảnh
hưởng khác nhau đổ lên trên vùng này, và theo tính cách văn hoá, lại cũng có
nhiều ngẫu thần được đưa vào vùng đất này để mọi người cúng bái, thờ lạy. Mỗi
vị thần, xem ra đều “trụ trì” một khu vục địa dư riêng tư đặc biệt, thông
thường là quanh vùng đồi núi ở quanh đó. Chuyện này cũng tương tự như “khu vực
của giáo phái Mormon” ở bang Utah, Hoa kỳ. Tại mỗi
khu vực tư riêng của mình, các thần đều là thủ lãnh tối cao và là vua quan lãnh
chúa ở nơi đó. Tại đó, cũng thấy có “Thánh Mẫu của mọi thần”, có cả “Thánh Mẫu
của Núi Đồi”. Và có cả “Thánh Mẫu Vĩ Đại”. Bà là vị Giám hộ của mọi qui luật
được viết ra và thực hành. Bà là người duy trì Luật pháp. Bà rất dũng mãnh nên
vẫn được hình-tượng-hoá bằng tranh vẽ “Ông Sư tử”. Bà có khả năng kiểm soát toàn
hoang dã, rừng rú. Việc thờ cúng bà còn gồm cả các “khoái cảm đến tột đỉnh” có
kiểm soát/không chế; bởi lẽ, đó là một phần của việc thờ cúng có tính cách tôn
giáo, rất hưởng lạc.
Nhằm phục vụ nữ thần này, có
nhân vật được gọi là Attis, một nam nhân không râu, trẻ trung nhưng vừa yêm
hoạn, lại trai tráng. Với các đạo giáo La Mã của người Gals, thì tất cả mọi
thần đều ngang nhau, và ở đây lại có nối kết giữa các vị này bằng danh xưng rất
chung là người Gals. Các vị này đều là nô lệ của Thánh Mẫu Vĩ Đại. T6on giáo
của các vị này được khai tâm bằng các nghi thức, kể cả nghi thức yêm hoạn cũng
không bị loại bỏ. Họ thực hành cả loại hình nghi thức theo kiểu làm điếm tập
thể. Họ được coi như phù thuỷ chữa lành mọi bệnh tật và cũng là tiên tri theo
nghĩa của dân ngoại. Họ có thực quyền đối với dân chúng, thuộc mọi thành phần.
Chúng dân ở đây, đều bị phù-thuỷ-hoá do bởi toàn bộ việc thờ phượng cúng bái đức
“Thánh Mẫu Vĩ Đại”. Điều này xem ra được nói kết với việc chấp nhận uy lực kiểm soát cả vũ trụ của họ, nữa...
(còn
tiếp)
____________________
Lm Kevin
O’Shea, CSsR
Mai Tá lược
dịch
--------------------
(còn
tiếp)
--------------------------------
Lm
Kevin O’Shea, CSsR –
Mai Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment