ỨNG NGHIỆM LỜI KINH THÁNH
Đức Giêsu trở về miền Galilê ( cc. 14 – 15 ). Thánh Luca
viết phần này như một bản tóm tắt các hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê.
Từ Giorđan, qua hoang địa, Đức Giêsu trở về Galilê với tràn
đầy quyền năng Thánh Thần. Đó là nơi Đức Giêsu đã sống suốt thời niên thiếu.
Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên Người trở về Galilê, theo Tin Mừng theo
Thánh Luca. Đây là lần thứ hai. Lần thứ nhất xảy ra khi Người lên 12 tuổi, sau
kỳ lễ tại Giêrusalem. Khi ấy, “Người đi
xuống cùng cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” ( 2, 51 ).
Còn bây giờ, Người trở về Galilê dưới sự thúc đẩy của Thần Khí, trong tư cách
Mêsia – Ngôn Sứ, và để bắt đầu sứ mạng công bố Tin Mừng của Người. Điểm đặc
biệt của cuộc trở về lần này, như thế, là do Thần Khí, Đấng đang ngự trên
Người. Sự khởi đầu sứ vụ công bố Tin Mừng của Đức Giêsu được đặt trong tương
quan mật thiết và trực tiếp với cuộc xức dầu Thánh Thần trong biến cố Người
lãnh nhận phép rửa và cuộc thần hiện sau đó. Chính dưới sự thúc đẩy của Thần
Khí mà Đức Giêsu đã bắt đầu thi hành sứ vụ của Người. Người sẽ hoàn thành sứ vụ
ấy trong sức mạnh của Thần Khí.
Vừa sau khi kể về cuộc trở lại Galilê của Đức Giêsu, tác giả
Tin Mừng đã khẳng định: “và tiếng tăm
Người đồn ra khắp vùng lân cận”. Thực ra, cho đến lúc này, Đức Giêsu chưa
thực hiện bất cứ hoạt động công khai nào. Vậy tiếng đồn ( phêmê ) này liên quan đến điều gì ? Phải chăng đó là tiếng đồn về
những gì đã xảy đến trong biến cố Người được xức dầu trong khi cầu nguyện sau
khi nhận phép rửa ? Có thể là như thế. Nhưng cũng có thể hiểu đây là tiếng đồn
( sau này ) về những gì Người thực hiện trong cuộc đời hoạt động công khai,
nhưng được tác giả Luca nói trước trong bản tóm lược hoạt động của Đức Giêsu
tại Galilê này.
Về hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê, tác giả Luca nhấn
mạnh việc Người giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái ( c. 15a ).
Thực ra, hoạt động của Đức Giêsu nhắm đến toàn dân. Nhưng ở đây, tác giả Tin
Mừng nhấn mạnh yếu tố “trong các hội
đường của họ”. Phải chăng ông muốn trình bày Đức Giêsu như một rabbi hoạt
động trong hệ thống tôn giáo của thời đại mình ? Hay Thánh Luca muốn tránh cho
người đọc ấn tượng về một nhà giảng thuyết “lang thang” như nhiều triết gia
thời ấy ? Hay ông muốn nhấn mạnh rằng thực tại mới mẻ mà Đức Giêsu mang đến
không hề đoạn tuyệt với thực tại tôn giáo Israel ? Dù sao đi nữa, cách thức hoạt
động đó của Đức Giêsu sẽ được Thánh Phaolô trung thành áp dụng sau này.
Tác giả Luca không nói gì về nội dung lời giảng dạy của Đức
Giêsu tại Galilê. Có lẽ ông muốn dành điều đó cho trình thuật về cuộc giảng dạy
đầu tiên của Người tại Nadarét. Nhưng ông cẩn thận ghi nhận rằng Đức Giêsu “được mọi người tôn vinh” ( c. 15b ). Đức
Giêsu thành công bước đầu trong việc thực hiện sứ mạng rao giảng tại Galilê, và
tác giả Tin Mừng ghi nhận điều đó một cách ngắn gọn. Đáng chú ý là ông dùng một
từ thường chỉ sử dụng cho Thiên Chúa: “tôn vinh” ( x. 7, 16 ).
Sau phần tóm tắt ( cc. 14 - 15 ), tác
giả Luca kể lại hoạt động giảng dạy đầu tiên của Đức Giêsu, diễn ra tại
Nadarét. Đó “là nơi Người đã được dưỡng
dục”, nên cư dân ở đó sẽ là những chứng nhân đầu tiên của lời Người giảng
dạy, và phản ứng của họ sẽ phần nào là hình ảnh của phản ứng của Israel đối với
hoạt động của Đức Giêsu.
Đến Nadarét, “Người
vào hội đường như Người vẫn quen làm”. Thói quen này của Đức Giêsu, như
thế, có từ thời niên thiếu. Lòng tin Kitô giáo rõ ràng không phải là sự đoạn
tuyệt, song là sự trưởng thành hoàn bị của đời sống tôn giáo đích thực trong Israel.
Nhưng bắt đầu từ hôm nay, sẽ có một
điểm mới so với tất cả những lần Đức Giêsu lui tới hội đường trước kia. Điểm
mới mẻ này sẽ xảy đến khi Người đứng lên đọc đọc Sách Thánh và mở lời giảng
dạy.
Tác giả Luca không kể lại chi tiết những nghi lễ diễn ra
trong hội đường vào ngày sabát ấy. Ông lược bỏ mọi chi tiết có thể làm cho người
đọc mất tập trung vào điểm chính yếu. Trung tâm của trình thuật ở cc. 16 – 21,
thực ra, là lời trích Ngôn Sứ Isaia và lời khẳng định của Đức Giêsu về sự ứng
nghiệm lời Kinh Thánh. Cấu trúc của trình thuật mang tính quy tâm:
( a ) Người
đứng lên
( b ) Người nhận sách
( c ) Người mở sách ra
( d ) lời trích Ngôn Sứ Isaia
( c’ ) Người cuộn sách lại
( b’ ) Người trả sách
( a’ ) Người ngồi xuống.
Điều đáng chú ý nữa là Thánh Luca không hề nói cách tường
minh rằng Đức Giêsu đọc sách. Ông cố ý làm thế có lẽ bởi vì ông không muốn
người đọc chú tâm vào sự kiện Đức Giêsu đọc bản văn, mà chỉ chú tâm vào lời
giảng của Người sau đó.
Bản văn Ngôn Sứ Isaia được ghi lại ở cc. 18 – 19 thực ra là
sự trộn lẫn hai bản văn của Isaia trong bản LXX ( Is 61, 1 – 2; 58, 6; 61, 2a
). Tác giả Luca cố ý nhấn mạnh những điểm chính yếu trong sứ mạng công bố Tin
Mừng của Đức Giêsu khi ông đặt bản văn ngôn sứ này vào trong cuộc khởi đầu sứ
mạng ấy:
- Việc nhắc đến vai trò của Thần Khí gợi ý trực tiếp đến
biến cố xảy ra sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Người được xức dầu Thánh Thần
và được thánh hiến cho sứ mạng Mêsia. Hơn nữa, điều đó còn cho chúng ta một yếu
tố có tính quyết định trong việc giải thích hoạt động của Đức Giêsu: tất cả
hoạt động của Đức Giêsu đều được đặt dưới dấu ấn Thần Khí đã được tỏ hiện trong
biến cố tại Giorđan. Cũng chính Thần Khí sẽ thúc đẩy Hội Thánh công bố Tin Mừng
cho thế giới.
- Điểm chính yếu trong sứ điệp Tin Mừng mà Đức Giêsu công bố
là ơn giải thoát toàn diện. Đó cũng sẽ là điểm chính yếu trong sứ điệp của Hội
Thánh.
- Giá trị của lời công bố được đề cao. Tác giả Luca không
phủ nhận sự kiện Đức Giêsu làm phép lạ, nhưng ông muốn nhấn mạnh ở đây trên lời
loan báo và công bố Tin Mừng. Đức Giêsu hoạt động trước hết qua lời của Người
để thay đổi con tim người ta. Tất nhiên đó cũng sẽ là thực tế của Hội Thánh sau
này: Hội Thánh công bố lời, và qua kerygma mà ơn cứu độ được hiện tại hoá trong
thế gian.
- Đối tượng ưu tiên của lời loan báo Tin Mừng là những người
nghèo. Chính cho họ trước hết mà Đức Giêsu công bố tin Mừng của Thiên Chúa.
- Tác giả Luca cố ý cắt bỏ câu “ngày báo phục của Thiên
Chúa” trong Is 61, 2b. Ơn cứu độ mà Đức Giêsu công bố là ơn cứu độ phổ quát chứ
không phải là một cuộc phán xét kinh hoàng trong đó Thiên Chúa an ủi những
người Israel bằng cách trừng phạt dân ngoại. Như
thế, năm hồng ân được công bố cho mọi người. Có hai cách dịch chữ đêktôs ở đây:
+ hiểu theo nghĩa hoạt động, phải dịch
là hồng ân, cứu độ, phúc lộc: “năm
hồng ân / năm cứu độ”, trong đó Đức Chúa thực hiện ơn cứu độ của Người;
+ hiểu như một tính từ, phải dịch là được thương nhận, tức là “một năm được
Đức Chúa thương nhận”, trong đó, Đức Chúa thương nhận con người, tỏ lòng ưu ái
đối với con người.
“Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc
hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.
Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa
nghe” ( cc. 20 – 21 ). Đức Giêsu không bình luận hay
giải nghĩa lời ngôn sứ Isaia vừa được trích dẫn. Người xác nhận và thực hiện
lời ấy. “Hôm nay” ( semêrôn ) khai mở
“năm hồng ân / năm được thương nhận”, tức là khai mở thời gian cứu độ. Lời công
bố này của Đức Giêsu cũng một trật là sự thực hiện của Người, tức là một rhema, một lời – biến cố, không chỉ là
một diễn văn hay một thông báo.
Sự ứng
nghiệm / thực hiện / hoàn thành ở đây có thể hiểu theo 3 nghĩa: sự thực
hiện một lời hứa, sự ứng nghiệm một lời tiên báo và sự hoàn thành một chương
trình đang được thực hiện. Lời Kinh Thánh ( Cựu Ước ) là lời tiên báo cần được
ứng nghiệm, là lời hứa cần được thực thi và là tiến trình cần được hoàn thành.
Đức Giêsu công bố rằng hôm nay, nơi Người, đã xảy đến sự ứng nghiệm – thực hiện
– hoàn thành đó.
Lm.
NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT
No comments:
Post a Comment