Người ta nói
‘con đuờng dài nhất là con đuờng từ đầu đến bàn tay’. Câu nói này thường được
dùng để ám chỉ đến những người nói nhiều, làm ít hay không làm. Nói thì ai nói mà
không đuợc, nhưng biến lời nói thành việc làm là điều thật khó khăn. Thế giới
ngày nay cần nhiều chứng nhân hơn là các chứng từ. Chúng ta đều biết ‘lời nói
lung lay gương bầy lôi cuốn’. Như vậy, chứng nhân cần sống đúng với chứng từ của
mình, điều đó có nghĩa là chứng nhân không có lối sống chạy theo đám đông, hay
làm để chiều theo thị hiếu của quần chúng;
nhưng là sống thế nào để họ noi guơng rồi đi theo.
Trong mấy
ngày vừa qua, tôi có gặp một số phu huynh để nghe họ tâm sự. Khi nhìn vào thực
trạng đang xẩy ra trong một số gia đình, quí vị cảm thấy như có một gánh nặng đè
trên hai vai về lối giữ đạo của con cái họ. Nhà thờ và các nghi lễ phụng vụ không
còn hấp dẫn các cháu nữa. Đây không chỉ là vấn đề làm cho quí vị nhức đầu; nhưng
đó là thách đố chung của Hội Thánh và cho những ai còn môt chút quan tâm đến cuộc
sống của giới trẻ hôm nay. Tuy nhiên, điều làm tôi cảm động khi nghe quí vị
chia sẻ rằng một trong những nguyên nhân khiến các cháu có lối sống như thế là do quí vị đã không làm gương sáng. Qua
lời than van này, quí vị đã giúp tôi nhớ lại rằng, điều kiện tiên quyết của
người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình. Và, Gioan Tẩy giả trong bài
Tin Mừng hôm nay là guơng mẫu trong sứ mạng làm chứng như thế.
Đời sống
và các sinh hoạt tôn giáo của dân Do Thái được nuôi dưỡng bởi các ngôn sứ. Họ đã
đóng một vai trò thật quan trọng trong việc nuôi duỡng niềm tin của dân chúng
huớng về ngày cứu độ. Tiên tri Malachi là vị ngôn sứ đã xuất hiện khoảng 450
năm trước khi Gioan đến. khoảng thời gian 450 năm không là một giai đoạn ngắn,
ít nhất cũng trải qua 4, 5 thế hệ. Vì không đuợc huớng dẫn bởi các ngôn sứ, cho
nên thời gian này có thể đuợc ví như khoảng thời gian dân Do Thái mò mẫm trong
đêm tối. Và như vậỵ, họ không chỉ mong chờ mà còn rất cần được Ánh sáng dẫn đuờng
chỉ lối!
Với một
bối cảnh như thế, và lòng dân chúng đang mong chờ vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế sẽ
đến để giải thóat họ khỏi ách nô lệ, cứu thoát họ khỏi cảnh lầm than. Vì thế,
khi nghe tin Gioan xuất hiện, họ từ Giê-ru-sa-lem, khắp miền Giu-đê và vùng lân
cận sông Gio-đan hân hoan kéo đến nghe ông giảng. Trái lại, thái độ của các vị
lãnh đạo đền thờ lại khác. Họ sai các tư tế và mấy thầy Lêvi đến chất vấn ông.
Nhân dịp này, Gio-an đã làm chứng cho họ biết Ngài không phải là Đức Ki-tô,
cũng chẳng phải là Ê-li-a hoặc là ngôn sứ gì cả. Ngài chỉ là tiếng hô trong
hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đấng Cứu Thế đến như ngôn sứ Isaia đã
nói.” (Ga 1: 20-23) Rồi mấy người trong nhóm Pha-ri-sêu lại hỏi tại sao ông làm
phép rửa, nếu ông không phải là Đức Kitô. Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa
trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ
đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1: 26-27)
Giả như
Đức Giê-su không xuất hiện và Gio-an không nói sự thật về vai trò của ông thì
khách quan mà nói trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế; Thánh Gio-an Tẩy
giả, với lối sống khổ hạnh và lời rao giảng có sức lôi cuốn mãnh liệt, có thể
bị ngộ nhận là Đấng Cứu Thế mà tòan dân đang mong chờ. Gioan đã không chỉ làm chứng bằng lời nói; nhưng gương can đảm, sống
theo sự thật làm cho chúng ta phải cảm phục. Gioan đuợc ví như cây sậy phất
phơ trước gió, nhưng Ngài đã không ngã gục trước quyền lực của những người đến
hỏi tội ông. Gio-an cũng không đánh lừa dân chúng. Ngài can đảm nói lên vai trò
của nhân chứng về sự thật. Và vì sự thật mà Ngài đã bị xử tử, bị giết chết. Đó
chính là con đường mà ngôn sứ phải đi: chỉ biết nói sự thật cho dù phải chết.
Đây quả là
một thách đố. Nhiều khi, vì bảo vệ cho sự sinh tồn của cộng đòan, giáo xứ và
địa phận… chúng ta không những chỉ làm ngơ truớc bạo lực, đôi khi còn cộng tác
với những kẻ có quyền thế và quên đi số phận lầm than của những người mà chúng
ta được sai đến để săn sóc và bảo vệ họ. Nguyên tắc trao đổi để đôi bên đều có
lợi chưa hẳn được phát xuất từ lòng tin. Theo tôi, đó chỉ là sự khôn ngoan của
thế gian!
Gioan
không phải là ánh sáng mà chỉ là nhân chứng của ánh sáng. Ánh sáng đích thật là
Chúa Giêsu. Vì thế khi Đức Kitô bắt đầu sứ vụ công khai thì vai trò của Gio-an
phải lu mờ. Cũng như Gio-an, chúng ta phải biết chấp nhận sự thật về mình, sự
giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về mình cái mà mình không có,
điều mà mình không làm. Bằng không, chúng ta có thể trở thành những con người
bất mãn và chỉ biết đòi hỏi.
Đây là sự
cao trọng trong sứ mạng của Gio-an. Chính vì biết mình là ai, và cần phải làm
gì trong chuơng trình của Thiên Chúa, nên Gio-an đã trở thành con người vĩ đại
như lời ca tụng của Đức Giêsu: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã
lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan tẩy giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất
trong Nước trời còn cao trọng hơn ông.” Bởi vì, vai trò của Gio-an dù có cao
trọng đến đâu thì ông vẫn chỉ là người dọn đường; còn chính Chúa Giê-su và
những kẻ thuộc về Người mới thuộc về Nước Trời. Đó là giáo lý mới, tin vui mà
Chúa Giê-su đã đem lại. Chính Gio-an cũng phải thay đổi lối nhìn và cách sống sao
cho phù hợp với những yêu sách của Tin Mừng về Nước Trời. Với Đức Giêsu, trong
Vương Quốc của Người, chúng ta hãy cứ để cho ‘cỏ lùng và lúa tốt” cùng mọc lên,
cho ‘chiên và dê’ cùng sống chung. Việc phân xử là của Chúa. Thời gian phân xử
cũng thuộc về Ngài. Còn bây giờ, chúng ta hãy noi gương Chúa Cứu Thế, đi
trên con đuờng mà Người đã đi, chiếu
hy vọng đến những nơi tăm tối, đem
tin vui tận hang cùng ngõ hẻm của thế giới; rao giảng Đấng có quyền làm cho “kẻ què được đi (trên con đường của
Chúa), người điếc được nghe (tin vui), người mù được nhìn thấy (ánh sáng) và kẻ
chết được sống lại từ cõi chết”.
Tóm lại,
vai trò của Gio-an là giới thiệu và dọn đường cho Đấng Cứu Thế; còn Chúa Giêsu
và chúng ta là niềm hy vọng, nguồn sống sung mãn của Thiên Chúa cho người khác.
Có như thế, viêc chúng ta mừng lễ Giáng Sinh không phải là việc tưởng niệm biến
cố đã xẩy ra trong quá khứ; nhưng là tiếp tục công việc mà Chúa Giêsu đã làm
cho những hạng người nói trên. Ước mong ân huệ của đêm Giáng Sinh sẽ biến cuộc
đời của chúng ta trở thành nhân chứng của niềm vui; niềm vui này giống như niềm
vui mà sứ thần đã loan báo: “Hôm nay
Đấng cứu Thế đã sinh ra” không phải tại Bê-lem nhưng bởi lối sống của chúng tôi,
là những người có nhiệm vụ cao trọng hơn Gio-an Tẩy giả.
Và để kết
thúc tôi xin gửi đến anh chị em một kinh nghiệm vô cùng quí báu mà tôi đã được
chia sẻ vào hôm Thứ Hai, ngày 11.12 vừa qua. Số là có một cháu gái, tôi đoán cô
ta khoảng 18 hay 19 tuổi. Cháu đến gặp để chia sẻ niềm vui mà cháu vừa trải
nghiệm. Nghe đến đó, tôi chỉ biết âm thầm tạ ơn Chúa, cảm ơn cháu và tiếp tục
lắng nghe. Con vừa làm được một việc cả thể và hiện giờ con vui lắm. Vậy sao!
Tôi đáp. Cháu tiếp tục, con vừa mới tha cho một người mà con đã ghét cay ghét
đắng trong mấy năm qua. Tôi thinh lặng trong giây lát, sau đó gợi ý với cháu
rằng hẳn nhiên người mà con ghét cay ghét đắng phải là người vô cùng quan trọng
trong cuộc sống của con mấy năm qua. Không để tôi dứt lời, cháu đã tiếp tục nói
đúng thế cha ơi, người đó là bố của đứa con của con. Chúng con quen nhau, và
cũng chưa có cuới hỏi gì hết. Nhưng nay không cần nữa vì ông ta đã phụ con. Tôi
bèn nói, quả thật là tin vui, không có niềm vui nào to lớn hơn niềm vui tha thứ
mà con vừa chia sẻ. Nhưng có một điều cha nhắc cho con biết là niềm vui và sự
tha thứ chỉ tồn tại khi nó phát xuất từ kinh nghiệm vui mừng và đuợc tha thứ
bởi Thiên Chúa. Cầu chúc con mãi mãi vui khi rộng luợng và tha thứ cho những ai
đã phụ mình; bởi vì mình cũng đã nhiều lần phụ Chúa. Đó cũng là lời nguyện chúc
cho nhau để chúng mình cùng hoàn tất sứ mạng làm chứng cho niềm vui và sự tha
thứ mà chúng ta hân hoan đón nhận trong Mùa Vọng và nhất là qua Mầu Nhiệm Nhập
Thể mà chúng ta sẽ cử hành năm nay. Amen
No comments:
Post a Comment