Chương 4
Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan
Bậc Thày khôn-ngoan thay thế.
(Bài 18)
Đâu là giáo-huấn
có từ sự Khôn ngoan của Đức Giêsu:
Khôn-ngoan lật-đổ và khôn-ngoan thay-thế
Là
Bậc Thày Khôn-ngoan, Đức Giêsu từng làm suy-yếu thế-giới của khôn-ngoan qui-ước;
và Ngài cũng đề-cập đến loại-hình khôn-ngoan thay thế. Hai loại-hình khôn-ngoan
nói ở đây, nối kết với nhau, từ bên trong. Loại-hình đầu, phải phân-huỷ để loại-hình
sau có cơ xuất đầu lộ-diện. Đức Giêsu thiết-dựng công-trình này bằng một số đường-lối
khác biệt.
Nghịch thường - đảo lộn
Đức
Giêsu thường sử-dụng ngôn-từ nghịch-ngạo và đảo lộn, hầu làm tiêu-tan
khôn-ngoan qui-ước, vốn phát-triển ở thời Ngài. Giáo-huấn Ngài dạy, thật khó thực-hiện
dù có bất cứ pha-trộn nào.
Lại
có câu hỏi rằng: thế-giới nào, lại có người Samaritanô, nhân-vật dị-thường, uế-tạp
được coi là đám người “hạnh đạo” đích-thực như người hùng trong các truyện kể?
Thế-giới nào, lại có đám Pharisêu được coi là công-chính tinh-tuyền rất tiêu-biểu;
lại được định-danh là kẻ bất-chính ở bên ngoài, được chấp-nhận đến như thế?
Thế-giới
nào đây, khi việc cưỡi lừa được coi là biểu-tượng của uy-quyền nơi vua
quan/lãnh chúa, trong đó sự tinh-sạch là chuyện của tâm-can chứ không là ngoại-hình.
Và trong đó, người nghèo khó lại được chúc phúc; và, kẻ đầu hết sẽ nên chót hết,
người chót hết lại sẽ trở nên đầu hết, kẻ
khiêm-hạ được đề-bạt, người kiêu-ngạo bị hạ bệ?
Giống
hệt thế. Đức Giêsu lại cũng nói nhiều về Vương Quốc Nước Trời. Ngài nói bằng
ngôn-ngữ rất khó đưa vào hiện-thực hoặc chẳng mong pha trộn được chút gì (*29). Vương-quốc đây, là thứ gì đó rất
cao cả, nếu đem so với những thứ khác rất nhỏ bé. Vương-quốc nói ở đây, giống
như “hạt cải” (*30), nhưng hạt cải lại
là thứ cỏ dại tràn đồng; bởi thế nên, Vương quốc lại cũng giống hệt cỏ dại, sánh
với thứ gì đó rất uế-tạp: cũng hệt như người nữ-phụ (là giống giòng nối-kết uế-tạp)
từng lấy men vùi vào bột cho đến khi bột dậy men (*31).
Vương
Quốc đây dành để cho trẻ nhỏ, tức: những kẻ sống trong thế giới nhưng không là
ai hết. Thành thử, Vương Quốc chẳng là ai và cũng không là gì hết (*32). So sánh này, được Đức Giêsu ví như
thực-phẩm dành cho những người bị bỏ rơi, ngoài xã hội. Thành ra, Vương Quốc lại
giống như buổi tiệc của những người sống ngoài lề, tức những người không là gì
cả, và cũng chả là ai hết.
Nhiều
vị, lẽ đáng ra, được sống ở Vương Quốc này, nhưng sẽ không bao giờ ở nơi đó. Nhiều
người từ phương Đông cũng đến dự tiệc ở Vương Quốc. Và, nhiều vị trong số những
người như thế, lẽ đáng, cũng ở trong Vương Quốc nhưng lại thấy cửa đóng then
cài, không vào được (*33).
Thêm
điều nữa, Vương Quốc đây không hiện-diện ở nơi nào khác, nhưng thực sự đã ở giữa
ta, trong ta và ngoài ta. Lại cũng thế, vào lúc nào đó trong tương-lai, Vương
Quốc ấy đang ở nơi đây, rồi sau đó phát-tán ở nhiều vùng trên trái đất; mà mọi người
đều không thấy (* 34).
Khôn-ngoan qui-ước
là con đường rộng mở
Giống
hệt như đa số các bậc hiền-nhân/quân-tử, Đức Giêsu lại cũng nói về hai con đường,
một, thật khôn khéo, còn đường kia gồm những xuẩn ngốc. Một, thuộc về sự sống;
còn đường kia chính là sự chết. Một đường rất chật hẹp, còn đường kia lại thênh
thang rộng rãi khắp nơi nơi.
"Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh
thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường
chật, thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7: 13-14) (* 35)
Với
phần đông các bậc hiền-nhân/quân-tử, con đường khôn khéo là “lộ tẻ” của
khôn-ngoan qui-ước; và đường xuẩn ngốc, lại sẽ là lộ-trình không cần đến
khôn-ngoan qui-ước chút nào hết. Đức Giêsu đã lật đổ đường/lộ này: Ngài vẫn nói
về con đường rộng mở dẫn vào một huỷ-hoại không như: sự quái ác/xấu xa hoặc
khùng điên trắng trợn, nhưng lại cứ như con đường của khôn-ngoan qui-ước.
Đức
Giêsu trực-tiếp đả-phá giá-trị tập-trung của khôn-ngoan qui-ước ở thế-giới ngoài
đời nơi Ngài đang sống, tựa hồ như: gia
đình, tiền của, danh-dự, sự tinh-sạch, lòng mộ đạo. Nhất nhất mọi sự đều được
truyền-thống phong thành thánh-nhân, và tầm quan-trọng của chúng là một phần của
thế-giới được phú ban cách nhưng-không.
Đối-nghịch
với các giá-trị này, ta lại sẽ thấy: một số câu nói rất triệt-để của Ngài được
đưa ra. Ở nền văn-hoá như thế, gia-đình hệ tộc lúc ban đầu là đơn-vị xã-hội, tức:
đặt trọng-tâm vào căn-tính và sự an-toàn vật-chất. Và gia đình “hạnh đạo”, chính
là phúc lành do Thiên-Chúa phú ban. Rõ ràng là, Đức Giêsu lại đã nói về việc hãy
rời bỏ hoặc “ghét bỏ” gia-đình nữa (*36).
Thật
ra, lời khuyên-răn Ngài từng dặn, là: “Đừng
gọi một ai ở dưới đất này bằng Cha, bởi các ngươi chỉ có một Cha trên trời mà
thôi”, lại cũng được định-hướng chống lại gia-đình hệ-tộc là đơn vị xã-hội
đầu tiên trong thế-giới này từng là hình thức-cực nhỏ của hệ-thống có trên có
dưới. Nếu thế, thì đây là trường-hợp điển-hình của sự việc Đức Giêsu sử-dụng ảnh-hình
Thiên-Chúa như người Cha theo đường-lối lật-đổ hệ-tộc rất cha chú (*37)
Tuyệt
nhiên không coi giàu sang/phú quý như một chúc phúc từ Thiên-Chúa để sống
khôn-ngoan, Đức Giêsu thấy sự việc này như mối bận-tâm việc sùng bái ngẫu-tượng
qua lệnh truyền bảo rằng: “Anh em không
thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6: 24) (*38)
Ngài
còn kể nhiều câu truyện về những người cứ bận tâm đến những ám ảnh khiến họ bỏ
lỡ tiệc bàn mở rộng mà họ được mời, truyện nhà nông từng để ra cả một đời thu
thập mọi sự vào kho lẫm để rồi trong phút chốc đã ra đi về miền vĩnh-cửu chưa kịp
sống; truyện tay trọc phú nọ cứ quên lãng ngày này qua ngày khác có kẻ bần cùng
khất thực nằm trước cửa (*39).
“Nghe Ngài nói thế,
các môn đệ sững sờ. Nhưng Ngài lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên
Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước
Thiên Chúa." (Mc
10: 24-25) (*40)
Cũng
hệt thế, Ngài nhạo báng những người cứ lo-lắng chuyện phục-hồi danh-dự, hoặc vẫn
bậm lòng về chuyện tinh-sạch, và Ngài lại cũng buộc tội những kẻ tin tưởng vào lòng
sùng đạo của họ. Chẳng thế mà, nhiều người không khỏi ngạc-nhiên trước những kẻ
quyết tâm duy-trì chỗ đứng trong thế-giới của khôn-ngoan qui-ước mà chẳng lấy
gì làm thích thú trước thông điệp Ngài đề ra và về các sự việc vô-nghĩa, gớm
ghiếc đầy đe doạ.
Đức Giêsu:
Ảnh-hình của Thiên-Chúa
Trong
phần lớn các truyện ngụ-ngôn và ẩn-dụ Ngài kể lại, Đức Giêsu mời những người
nghe Ngài giảng/dạy hãy coi Thiên-Chúa không như vị Thẩm-phán, cũng chẳng là đấng
bậc đòi mọi người phải thực-thị những điều Ngài đề ra không như người chủ-trương
hợp-pháp-hoá khôn-ngoan qui-ước -mà trái
lại, phải đề-cao ân-huệ cùng lòng xót thương, nhân-hậu.
Lời
Ngài nói khi xưa gồm toàn những điều như sau:
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không
thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng
quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình
thêm được dù chỉ một gang tay?
Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa
huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không
kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột
bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. (Mt 6: 26-29) (41)
Hồi
còn trẻ, tôi có khuynh-hướng tìm nghe những câu nói theo thể-loại phán-xét, cứ
coi đó như bản cáo-trạng xuất tự niềm tin không mạnh đủ, bằng những câu như:
“Ôi lạy Chúa, con đây thật cũng không tin vào những điều
như thế!”
Ngày
nay, tôi lại xem các phán-quyết tương-tự theo cách hiểu biết rất khác biệt.
Thay vì coi đó như phán-xét rất quyết-liệt, tôi coi đó như lời mời nhìn vào thực-tại
có đặc-trưng do từ lòng quảng-đại của vũ-trụ và do tự giòng chảy đầy tính xuyên
suốt của cuộc đời.
Và,
không có gì lạc-quan ở trong đó hết, bởi ngay câu nói tiếp theo đó, Đức Giêsu lại
kể về hoa huệ ngoài đồng hôm nay đẹp là thế, nhưng mai ngày lại sẽ bị vứt bỏ
vào lò lửa, như ở câu nói bảo rằng:
“Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò,
mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế,
thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! (Mt 6: 30) (*42)
Các
hình-ảnh mà Đức Giêsu gợi ra cho người nghe được thấy, đều xác-nhận một chuyển
tiếp của sự sống, và cũng mời chúng ta là người nghe hãy nhìn vào cội-nguồn của
mọi sự sống như ân-huệ và lòng quảng-đại của Thiên-Chúa, mà thôi.
Cũng
một chú-thích tương-tự, Ngài lại đưa ra câu nói khác mà người nghe thấy rất
quen. Đức Giêsu nói về Thiên-Chúa như thể Đấng làm cho “mặt trời mọc lên trên
ác thần sự dữ và cả những người có lòng đạo-hạnh”. Cũng hệt như người gửi “cơn
mưa nguồn đổ lên đầu người công-chính lẫn kẻ bất-xứng, mà không có ý-nghĩ nào hết
về tưởng thưởng hoặc trừng-phạt (*43)
“Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em,
Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu
cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất
chính”. (Mt
5: 45)
Thiên-Chúa
biết rõ mọi người chúng ta đến độ: từng sợi tóc trên đầu rơi xuống, đều được đếm.
Ngài còn thấy được cả con chim sẻ từ trên cao lao xuống, và mọi người chúng ta
còn cao cả hơn chim sẻ nhiều, như Tin Mừng còn ghi rõ ở câu sau đây:
“Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà
không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến tóc trên đầu anh em
cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.”
(Lc
12: 6-7) (*44)
Trong
truyện kể về người chủ vườn nho trả công cho thợ thuyền cũng một số tiền, bất kể
những người ấy làm nhiều hay ít có chuyên cần hay không. Ở truyện này, người
nghe Ngài kể đều được mời đi vào một thế-giới trong đó mỗi người và mọi người đều
nhận được những gì mình cần đến, như câu Tin Mừng sau đây:
“Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã
ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ
là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba,
ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng
bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ
công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở
ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những
người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không
làm gì hết?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ:
"Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!"
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh
gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những
người vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến
lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước
nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một
quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ
làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người
đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." Ông chủ
trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà
đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó.
Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay
vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?" (Mt 20: 1-15) (*45)
Người
làm vườn, đưa ra lời phàn-nàn đây, là hiện-thân của thế-giới cũ, tức: thế-giới
của khôn-ngoan qui-ước, và câu đáp trả của chủ vườn đối với họ thật kinh-hoàng:
“Phải
chăng bạn thấy tôi tốt bụng,
mà đâm
lòng ghen tức”
(Mt 20: 15)
Dụ-ngôn
Ngài kể, mời tất cả những người đang nghe hãy biết rằng: Thiên-Chúa hành-xử giống
như chủ vườn này, chứ không giống Thiên-Chúa chuyên đòi hỏi rồi mới tưởng thưởng.
Các
chủ-đề đây, đều đi qua truyện kể do Đức Giêsu giảng-dạy mà mọi người đều hiểu/biết.
Ở dụ-ngôn kể về Người Con Đi Hoang, được coi như một tuyệt-tác ở Tin Mừng, qua
đó ta thấy được rằng: Đức Giêsu có biệt-tài kể truyện để rồi ngang qua đó, bằng
vào thể-loại chào mời, Ngài lật đổ khôn ngoan theo qui-ước và từ đó Ngài thiết-lập
nền-tảng của khôn-ngoan thay-thế do Ngài đề ra, như thế ảnh-hình Thiên-Chúa như
Đấng giàu lòng xót thương chuyên ban phát huệ lộc.
Cũng
nên nghĩ về hình-thức trong đó ta thấy được truyện kể ở Tin Mừng do tác-giả
Luca ghi chép một tóm tắt tình-tiết của câu truyện truyền khẩu có ba màn, mỗi
màn được trải rộng theo ý muốn (*46).
Ở
màn một, cuộc sống của người con hoang đàng được tả rất chi-tiết. Đây là bức
tranh kể về hành-trình lưu-lạc có kết-cuộc kể về nhân-vật chính bị đẩy lùi ra
ngoài lề xã hội. Anh ta di-hành đi về nơi xa tít mù tắp (tức: xứ sở của Dân ngoại,
và vì thế mang tính uế-tạp). Rồi ở đó, người thanh-niên không chỉ hoang phí tiền
bạc và đi vào cuộc sống đầy mất mát, nhưng còn bị rơi vào vòng nghèo túng, trở-thành
người làm thuê cho trại nuôi heo của dân ngoại.
Là
kẻ tham ăn tục uống như loài heo/lợn, anh ta trở nên người tồi tàn, thuộc tiện
dân. Thật cũng khó mà tưởng tượng ra ảnh-hình nào đớn hèn hơn thế trong bối-cảnh
cuộc sống của người Do-thái-giáo ở thế-kỷ thứ nhất. Màn một kết-thúc bằng cảnh-tượng
người con đi hoang quyết-định quay về nhà.
Màn
hai, tập-trung mọi chuyện vào người cha. Thoạt thấy người con mình từ xa, ông
đã “tỏ lòng thương xót” và đon-đả chạy về phía trước, để gặp con. Trước khi người
con này thưa thốt điều gì, người cha đã vội ôm anh hôn lấy hôn để.
Khi
đó, người con đi hoang đã cẩn-thận sửa soạn xưng-thú mọi lỗi lầm mình mắc phải,
người cha đã vui vẻ gọi người mặc áo tốt nhất cho anh rồi còn xỏ nhẫn vào tay,
cho anh đi giày cẩn thận nữa. Đây, là biểu-tượng cho sự chấp-nhận và phục hồi về
trạng-thái cũ. Và rồi, ông ra lệnh mở tiệc bàn cho con ngay lập tức.
Dụ-ngôn
có thể kết-thúc ngay ở đây và khi ấy có thể đưa ra lời tuyên-bố đầy uy-lực về
lòng xót thương của Thiên-Chúa cũng như việc Chúa chấp-nhận những kẻ bị gạt ra
ngoài lề xã hội. Nhưng, không phải thế.
Màn
ba, bắt đầu bằng âm-thanh của giòng nhạc và điệu vũ cứ nổi trôi nơi đồng ruộng
cạnh bên lại đã tập-trung vào nhân-vật thứ ba, là anh trai trưởng. Nghe tiếng đàn
hát ăn mừng và thâu thập tin-tức từ người hầu, anh trai trưởng bèn từ-khước
tham-dự tiệc bàn do cha mình thiết-lập. Thay vào đó, anh mở lời thanh trách, những
là: biết bao năm trời anh quyết thực hiện làm người con ngoan chuyện vâng lời,
cần cù mà chẳng bao giờ được đền bù như thế.
Người
cha, bèn nài nỉ anh hãy tham-gia tiệc mừng cho đẹp mọi bề, và dụ-ngôn kết-thúc
bằng câu hỏi bỏ lửng trên không: phải chăng người anh cả có cảm giác là mọi sự
đã đẩy lùi anh khỏi tiệc bàn mững rỡ? (*47)
Dụ-ngôn
đây, cho thấy có sự lật đổ rất hệ-thống về thế-giới của khôn-ngoan theo qui-ước,
Giọng người anh cả là tiếng giọng của chính khôn-ngoan qui-ước; chính do từ tiếng
giọng của người anh cả đã mời gọi người nghe hãy nghe biết chính điều anh nói
và rồi mới bác bỏ.
Không
cần thiết phải biến câu truyện dụ-ngôn
đây thành lời phủ dụ bóng bảy để thấy được đặc-trưng/đặc-thù của người
cha vốn hành-xử như Thiên-Chúa, đầy lòng xót thương, cảm mến đối với người con
trai đã mất đi trong lưu-lạc, nay quay về với niềm vui lớn.
Thêm
nữa, câu truyện kể về người Con Đi Hoang tạo ảnh-hình về cuộc sống đạo-đức một
cách rất khác hẳn. Khác, với những gì được thấy trong thế-giới của không-ngoan
theo qui-ước: như thể sự sống đầy lưu-lạc ở “trời xa/đất lạ” và hành trình quay
trở về --không như cuộc sống đầy bổn-phận, nhiều ràng buộc dù có thưởng. Giữa
hai sự việc ở đây, luôn thấy có cách biệt rất to lớn.
Chính
vì thế, nên: ảnh-hình của Thiên-Chúa nằm ở trọng-tâm lời rao giảng của Đức
Giêsu làm xói mòn động lực đòi buộc và tưởng thưởng nằm ở trọng-tâm của
khôn-ngoan theo qui-ước. Nói về Thiên-Chúa Đấng có lòng thương xót chuyên ban
huệ lộc cho con người –như lòng dạ rất tốt
bụng, hầu gợi nhớ chủ-đề đặt ra ở chương trước, lại rất khác với ảnh-hình
Thiên-Chúa là Đấng đề ra luật-lệ và là vị thẩm-phán áp-đặt một cuộc sống đầy
ràng buộc.
Quả
thật, giả như ta coi lòng tốt bụng đầy huệ-lộc của Thiên-Chúa một cách
nghiêm-chỉnh, hẳn là việc ấy sẽ xói mòn thế-giới của khôn-ngoan theo qui-ước,
dù trong Đạo hoặc ngoài đời.
Điều
này nhấn mạnh vào lòng nhân-từ của Thiên-Chúa trong thông-điệp có từ Đức Giêsu
sẽ dẫn đến các câu hỏi về chuyện có chăng bất kỳ một phán xét nào, chăng. Có rất
nhiều điểm đáng ta để tâm có thể giúp ta làm sáng tỏ sự việc. Chương/đoạn tương
tự ở Tin Mừng Nhất Lãm nói về phán-xét cuối cùng kéo theo hệ-quả đời đời phần lớn
có từ sản-phẩm do tác-giả Mát-thêu ghi chép.
Thêm
nữa, khái-niệm bảo rằng: cuộc sống dưới thế-trần này trước nhất là về thực-thi
các đòi hỏi rất ràng buộc của Thiên-Chúa nghiêm trọng đến độ có làm như thế ta
mới mong được tặng ban sự sống đời sau, mà
theo tôi, lại sẽ khác hẳn những gì Đức Giêsu muốn đưa ra.
Mặc
dù tôi nghĩ rằng Ngài có thể “cũng tin vào sự sống vào đời sau” (*48) tôi lại vẫn không nghĩ rằng thông-điệp
Ngài đề ra là để bảo ta tìm cách đạt đến đó. Có vài chỗ, Ngài cũng đề-cập
thoáng qua về phán xét cuối cùng, thật sự là việc lật đổ lớn rộng các khái-niệm
được nhiều người chấp-nhận về cuộc phán xét ấy (*49)
Nói
tóm lại, chừng như mối đe-doạ bị Chúa phán-xét do bởi các lỗi/tội mình phạm phải
vào ngày sau hết không phải là trọng-tâm của điều Đức Giêsu muốn nói, nếu điều
đó có trong thông-điệp Ngài dạy.
Đây
kìa, khái-niệm về “cuộc phán-xét lịch-sử”
cũng có vai-trò nào đó trong thông-điệp Đức Giêsu gửi đến với người nghe, cũng
theo cùng một cung-cách cổ-điển như các ngôn-sứ khi xưa từng nói đến ở Cựu-Ước:
sự mù loà có hệ-quả của nó, cả với xã-hội cũng như cá-nhân mỗi người.
Trên
lãnh-cực xã-hội, bởi lẽ Giê ru sa lem (trọng-tâm của các vị ưu-tú cầm cân nảy mực)
đã không biết rằng: “sự việc đực dựng nên vì nền hoà-bình”, thì xung-đột nằm
ngay trước mặt (*50).
Trên
lãnh-vực cá-nhân riêng-rẽ, (cả từ thời xưa/cũ lẫn hôm nay), giả nhưng mọi người
không rời bỏ thế-giới của khôn-ngoan theo qui-ước, thì người ấy sẽ ở lại trong
đó mà sống trong lãnh-địa của sự chết.” Điều đó, chứ không phải mối đe-doạ bị
rơi vào chốn lửa lào hoả-ngục, mới là vấn đề cần để tâm.
(còn tiếp)
Gs
Marcus J. Borg biên-soạn - Mai Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment