Chương 4
Đức Giêsu và sự Khôn Ngoan
Bậc Thày của sự khôn ngoan được thay thế
(Bài 17)
Về vấn đề
Khôn-ngoan theo qui-ước
Trước
nhất, ta cũng nên nhìn vào khía-cạnh đối-nghịch giữa khôn-ngoan-lật-đổ và khôn-ngoan-thay-thế
do Đức Giêsu đề ra, tức: cần thay đổi khôn-ngoan qui-ước. Có hiểu khôn-ngoan ấy
là gì và nó hoạt-động ra sao, ta mới có được điều-kiện thuận-lợi để diễn-giải sứ-điệp
Ngài gửi đến; và hiểu được sứ-điệp của Đạo ở các thư do ông Phaolô viết và ở truyền-thống
rất thánh thiêng. Khôn-ngoan đây, cũng toả ngời nhiều lằn sáng soi rọi để ta hiểu
rõ hơn nữa.
Khôn-ngoan
qui-ước, là ý-thức thống-lĩnh mà bất cứ văn-hoá nào cũng đều làm thế.
Khôn-ngoan đây, là sự hiểu biết có văn-hoá về đường-lối mọi việc (trong đó có tầm-nhìn
về thế-giới hoặc ảnh-hình của thực-tại) và hiểu biết cung-cách sống-động (trong
đó có cả đặc-trưng sống còn, nữa). Đây, là “những gì mọi người hiểu” cả về thế-giới
trong đó ta sống có giao-tế ngang qua tiến-trình nhiều tăng-trưởng.
Khôn-ngoan
đây, lại là việc “dựng xây thực-tại xã-hội có văn-hoá”; và, là công việc nội-tại-hoá
công-cuộc xây-dựng bên trong tâm-thân mỗi cá-thể. Thành thử, đó là ý-thức đã thấm-nhuần
nền văn-hoá, tức: ý-thức do văn-hoá hoặc truyền-thống định-dạng ra nó.
Dù
nội-dung trong đó vẫn thay-đổi từ văn-hoá này sang trạng-thái khác, khôn-ngoan
qui-ước cũng sẻ-san nhiều đặc-trưng chung chung, nhờ văn-hoá. Không chỉ đặc-trưng
chung chung mới định-hình được khôn-ngoan qui-ước, nhưng các đặc-trưng này/khác
vẫn nói lên cung-cách hoạt-động trong cuộc sống của ta. Mọi đặc-trưng, vẫn vận-dụng
để ta thấy: cuộc sống hài-hoà với khôn-ngoan qui-ước không bị ý-thức thống-lĩnh
thế-giới ngoài đời của Do-thái-giáo vào đầu thế-kỷ, nhưng nó là ý-thức thống-lĩnh
ở thời-đại và văn-hoá của ta nữa.
Trước
nhất, khôn-ngoan hướng-dẫn giúp ta chọn đúng cung-cách sống. Nó bao gộp đủ thứ,
từ chuyện thực-thi hết mọi sự như dán nhãn hiệu lên giá-trị trọng-tâm và ảnh-hình
cuộc sống gặp ở văn-hoá.
Ban
đầu, nó minh-hoạ tình-trạng rối-rắm mà phần đông chúng ta còn nhớ ở thời thơ trẻ
đã có bài học với lời khuyên-nhủ như: “Đừng
nhai ngồm-ngoàm, vừa ăn vừa nói”, “Đừng lấy miếng bánh to nhất đặt trên dĩa”,
“Đừng hát hò ầm ĩ khi đang ăn.” Ta lại được dạy cách ăn canh/húp cháo cho
đúng phép. Có người làm thơ, hát vè để nhớ rằng: “Như chiếc thuyền nhỏ trực chỉ biển khơi, ta dùng muỗng vừa rút ra khỏi
món đồ mình vừa nhúng”. (*23)
Ta
được dạy, hãy giảm thiểu mọi tiếng ồn không lời từ thân mình, dù nó không được
đặt đúng chỗ. Tất cả, đều là chuyện nhỏ, lẽ đương nhiên, nhưng chúng minh-hoạ
cung-cách khôn-ngoan qui-ước thấm-nhập cùng khắp và ta học được điều ấy, cách sớm
sủa.
Quan-trọng
hơn cả, là ở chỗ: nhờ khôn-ngoan qui-ước biểu-hiện các giá-trị của văn-hoá nên ta
mới hiểu được ý-nghĩa của những gì rộng toả khắp muôn nơi và hình ảnh nó phản-ánh
lên cuộc sống rất tốt đẹp.
Do-thái-giáo
vào thế kỷ đầu đời, loại hướng-dẫn này là do sách luật Torah và khôn-ngoan dân
dã của nền văn-hoá bồi-dưỡng, một số điều được duy-trì ở sách Cách-ngôn. Người
dân bình-thường học được đường-lối sống như thế không qua nghiên-cứu, nhưng
đơn-giản chỉ bằng cách tăng-trưởng trong văn-hoá, như ta vẫn làm.
Thứ
hai nữa, khôn-ngoan qui-ước, tự bản-chất, đặt nền-tảng trên động-lực thưởng/phạt.
Ta gặt hoa trái, từ những gì ta gieo vãi. Cứ theo đường-lối này, rồi thì mọi việc
cũng sẽ tốt đẹp thôi. Ta tiếp-nhận những gì mình đáng hưởng; và cũng thế, người
công-chính cũng trù phú phát-triển, và đó là thông-điệp liên-hồi xuất tự
khôn-ngoan qui-ước.
Động-lực
năng-nổ đây, lại là nền-tảng khái-niệm của trời Tây về sự phán xét chung-cuộc
trong đó ta được tưởng-thưởng hoặc kết tội tuỳ hành-xử và/hoặc nỗi-niềm tin-tưởng.
Và, đó cũng là nền-tảng của khái-niệm về Nghiệp chướng của chúng dân phương
Đông. Chúng cũng được tìm thấy nơi hình-hài thế-tục, tức: cứ chuyên-cần làm việc
rồi thì mọi sự cũng sẽ tốt-đẹp.
Nó
còn kéo theo hệ-luỵ, dĩ nhiên, rất thực-tế ở chỗ: giả như ta không đạt kết-quả,
hoặc không được chúc-phúc, hoặc không phồn-vinh, phát-đạt, là do bởi ta không
theo đúng lộ-trình phải đi. Cuộc sống trở-thành vấn-đề đòi buộc có tưởng thưởng,
thất bại và trừng-phạt.
Thứ
ba là, khôn-ngoan qui-ước lại kéo theo cả hai hệ-quả xã-hội và tâm-lý. Về xã-hội,
nó tạo-thành một thế-giới có hệ-cấp và lằn ranh biên-thuỳ. Một số có lẽ do thừa-tự,
như khi có khác-biệt về giới-tính, sắc-tộc, hoặc điều-kiện thể-chất định hình
nên các giá-trị khác-biệt về văn-hoá cũng như vai-trò. Một số còn hơn là sản-phẩm
được trình-diễn: có nhiều người lại cứ đo-lường chuẩn-mực của khôn-ngoan qui-ước
tốt đẹp hơn nhiều thứ khác.
Về
tâm-lý, khôn-ngoan qui-ước trở-thành nền-tảng cho việc định-dạng và tự kỷ. Nó nội-tại-hoá
vào bên trong tâm-thân như siêu-ngã, bởi nó “đứng trụ trên tôi” và từ đó tôi phải
đo-lường (*24). Siêu-ngã đây (dù ta
có gọi nó là như thế hay không), nó vẫn là tiếng nói nội-tại của văn-hoá, là
kho-lẫm của những cái phải ở trong đầu
của ta, và nó hoạt-động như tiếng/giọng nội-tại cách chung chung chuyên bình-phẩm
hoặc đôi khi cũng khen ngợi nhiều điều.
Khôn-ngoan
qui-ước cung-ứng nội-dung đặc-biệt của nó. Tôi là người mà tôi có thể theo các
chuẩn-mực của khôn-ngoan qui-ước; và tôi nghĩ về mình theo cách tốt đẹp hoặc
nghèo nàn đều tuỳ cung-cách đo-lường các chuẩn-mực của nó. Vì thế nên,
khôn-ngoan qui-ước là cuộc sống bên dưới siêu ngã ấy.
Nói
tóm lại, dù theo hình-thức đạo-giáo hoặc trần-tục, thì khôn-ngoan qui-ước vẫn
kiến-tạo một thế-giới trong đó ta đang sống. Quả thật, là nó cũng thiết-dựng một
thế-giới, mà đó là sự thiết-dựng mà thôi. Nó là sự thuần-thục thực-tại, một mạng
lưới ta phủ trùm lên thực-tại. Trên nền-tảng, thì nó là cuộc sống nằm bên trong
thế-giới được thiết-dựng theo cung-cách xã-hội.
Cuộc
sống ở thế-giới này, có thể và thông thường đều buồn rầu, trì trệ. Đó là cuộc sống
câu-thúc, bị ràng buộc vào văn-hoá thống-lĩnh, trong đó ta trở-thành những con
người văn-hoá rất máy móc, cứ bị buộc phải tự-động đáp lại những gì văn-hoá ra chỉ-thị.
Đó,
còn là cuộc sống có tầm-nhìn giới-hạn và đôi lúc rất mù loà trong đó ta chỉ thấy
những gì do văn-hoá tạo điều-kiện cho ta thấy và bắt ta chú-tâm vào những thứ
do văn-hoá khẳng-định: nó đáng để ta tập-trung/chú ý. Đó là thế-giới đầy
xét-đoán: xét-đoán chính mình và xét nét người khác tuỳ tình-trạng ta cảm thấy
và tuỳ mọi người đo lường dò xét ta.
Đây,
là thế-giới toàn những so sánh: cũng có thể ta biết được rằng mình không là người
hấp-dẫn ở trong thế-giới này, nhưng do bởi ta lại hấp-dẫn hơn nhiều người khác,
nên cũng được. Hình-dạng của ta và tính tự-kỷ thường tuỳ-thuộc vào các thể-loại
so-sánh ấy, phần lớn các so sánh này đều như vô-thức nhưng dù sao đi nữa, nó
cũng rất ư quyền-thế.
Đây,
còn là cuộc sống đầy lo-âu phấn-đấu, và ta tự cảm thấy được việc hay không còn
tuỳ vào những gì ta làm hoặc không làm được như đã tính-toán. Đó là cuộc sống
theo theo “nguyên-tắc diễn-trình”, trong đó mọi sự đều tuỳ thuộc cung-cách ta
diễn-trình có tốt đẹp hay không (*25).
Cuộc
sống thể theo nguyên tắc diễn-trình lại cũng là sự sống thể theo nguyên-tắc thuận
hợp. Nhưng mỉa mai thay, ta tìm cách trở-thành nhân-vật trổi-vượt, tức: cố gắng
sống trổi vượt, bằng cách sống phù-hợp theo các chuẩn-mực do nền văn-hoá của ta
định-vị nên các giá-trị thường là rất cao. Vì thế nên, đó cũng là cuộc sống thuận
theo vua quan của văn-hoá.
Cuối
cùng thì, đây là cuộc sống tự bảo-toàn rất đậm sâu –luôn hỏi rằng: lâu nay ta
ra thế nào, tức: cuộc sống có định-vị và có an-toàn không. Thế nên, đó lại là
cuộc sống vị-kỷ theo cách rất đậm sâu. Tính vị-kỷ, thường đòi ta phải đạt phần
bánh to nhất đặt trên dĩa; hơn là bận tâm với chính mình.
Thêm
nữa, đường lối sống này không phải là bất thường, nhưng quả thật lại rất phủ trùm.
Nói theo cách đầy ngạc-nhiên thì nó phản-ánh ý-thức thông-thường của người lớn,
cả vào thời Đức Giêsu cũng như thời này. Cũng là chuyện quan-trọng, khi con người
lại cứ muốn trở-thành người lớn, tức: cứ muốn nội-tại-hoá khôn-ngoan qui-ước có
từ văn-hoá của chính mình. Đây, là những gì mà các nhà nghiên-cứu niềm tin gọi
đó là “thời của qui-ước nhưng không thật” trong cuộc sống, tức: thời của “người
lớn” còn gọi là thời-kỳ “xứng-hợp” với con người (*26).
Có
ảnh-hình về Thiên-Chúa vẫn sánh đôi với thế-giới của khôn-ngoan qui-ước. Khi
khôn-ngoan qui-ước xuất-hiện theo hình-thức đạo, thì Thiên-Chúa trước nhất được
tạo-hình như một nhà làm luật và như vị thẩm-phán. Thiên-Chúa có thể được gọi
theo cách khác, như: Đấng thứ-tha đầy huệ-lộc. Nhưng tựu trung, thì: Thiên-Chúa
đây vừa được coi là Cội-nguồn của mọi sự, vừa là Đấng thực-thi luật-lệ; và vì
thế, Ngài còn là Đấng Bào chữa, tức: một hình-thức rất “Đạo” của khôn-ngoan
qui-ước. Thiên Chúa trở-thành Đấng khiến ta phải làm sao để Ngài vừa lòng. Và,
Ngài còn là Đấng mọi người phải thực-thi những gì Ngài đòi buộc (*27).
Khi
điều này xảy ra ở truyền-thống trong Đạo, nó dẫn đưa ta đến ảnh-hình của cuộc sống
người tìn-hữu như một cuộc sống có nhiều ràng buộc. Quả thật, điều này xảy đến rất
thường xuyên đến độ nó đã trở-thành hình-thái rất chung của Đạo Chúa.
Điều
quan-trọng là phải thực-thi sự việc này, một phần để ta không phạm lỗi coi
khôn-ngoan qui-ước ngang hàng với Do-thái-giáo và khôn-ngoan thay-thế với Đạo
Chúa. Rất thường là, các Kitô-hữu (cũng như nhiều học-giả) cứ định-hình
Do-thái-giáo giống như đạo của lề-luật và ảnh-hình về Thiên-Chúa mà họ có lại
là Đức Chúa đầy phẫn nộ và chuyên xét-đoán, ngược với Đạo Chúa đích-thức vốn dĩ
được coi như đạo-giáo của ân-huệ, với ảnh-hình Thiên-Chúa là Đấng thứ-tha và
yêu thương.
Có
hai sai lầm trong việc định-hình này. Thứ nhất, theo lịch-sử, thì điều đó không
chính-xác và trên nền-tảng nó hoàn-toàn bất công đối với Do-thái-giáo. Khi xưa
có nhiều tiếng nói của khôn-ngoan thay-thế có bên trong Do-thái-giáo. Quả là,
Israel bắt đầu là “cộng-đoàn thay-thế của ông Môsê” lâu nay vẫn sống bằng “ý-thức
thay-thế” (*28) cũng từng đạt đến việc
tỏ-bày nơi các ngôn-sứ cổ-điển của một nước Israel xưa cổ và trong một phần của
truyền-thống khôn-ngoan được mọi người biết như một thứ “khôn ngoan lật đổ” hoặc
“khôn-ngoan đầy yếm thế” (Xem sách Giảng Viên và sách Job).
Thứ
hai là, điều này để luột mất đi luận-điểm mà tôi đang bàn về khôn-ngoan qui-ước
rất hoàn-toàn. Khôn-ngoan qui-ước không được định-vị với bất cứ truyền-thống đặc-biệt
nào hết; nó chỉ mang tính lật-đổ/huỷ-hoại trong tất cả mọi truyền-thống ta có.
Một lần, để nhấn mạnh luận-điểm này, thì: sự xung-đột giữa giữa khôn-ngoan
qui-ước và khôn-ngoan thay-thế không là xung-đột giữa Do-thái-giáo và Đạo Chúa, nhưng là xung-đột bên trong hai truyền-thống nói
trên.
Hiểu
điều này, cũng là chuyện quan-trọng giúp ta tự hiểu mình với tư-cách là Kitô-hữu.
Để minh-hoạ cho kinh-nghiệm của chính tôi, thì: tôi lớn lên là người theo
giáo-phái Luthêrô, một truyền-thống đạo-giáo nhấn mạnh lên ơn cứu-rỗi bằng
ân-huệ, chứ không bằng “công việc của luật-lệ”.
Thật
thế, “tha thứ bằng ân-huệ” khi xưa, từng là tiếng khóc trong cuộc chiến của
Phong-trào Cải-cách do Luther chủ-trương. Cuộc phấn-đấu cá-nhân và thần-học của
chính Luther là cuộc chiến chống lại quan-niệm “cứu-rỗi bằng công-lênh”. Với
tư-cách là người theo giáo-phái Luther, chúng tôi đều biết rõ: chúng tôi không
được cứu-rỗi do “công lênh” của mình. Đúng ra, chúng ta được cứu là nhờ vào “ân-sủng
ngang qua niềm tin”, mà thôi.
Và
rồi, việc nhấn mạnh lên ân-huệ đã đổi thay, để đi vào hệ-thống mới của
khôn-ngoan qui-ước, không chỉ có trong đầu óc của chính tôi mà, theo thiển ý, cả
trong đầu của rất nhiều vị theo giáo-phái Luther cùng nhiều tín-hữu, nói chung.
Việc
nhấn mạnh, đặt nặng lên niềm tin
hơn ân-sủng, và niềm tin lại đã âm-thầm trở-thành đòi hỏi mới. Niềm tin (thường được hiểu như sự
tin tưởng) là những gì Thiên-Chúa đòi hỏi con người. Và, thiếu mất niềm tin
cùng sự tin-tưởng, con người có cái nguy là sẽ chịu hình-phạt đến muôn đời, muôn
kiếp. Đòi hỏi của niềm tin luôn kéo theo nó, tất cả mọi lo-âu cùng mối bận-tâm
tự-tại vốn đánh dấu lên cuộc sống ở thế-giới của khôn-ngoan theo qui-ước.
Hỏi
rằng: Khi xưa, phải chăng chỉ mỗi niềm tin hoặc sự tin tưởng cũng gọi là đủ và
mạnh đủ không? Vì thế mà, nhiều người trong chúng ta và những người theo
giáo-phái Luther hôm nay, thì hệ-thống của khôn-ngoan qui-ước vẫn cứ tồn tại.
Duy chỉ mỗi nội-dung của đòi-hỏi là đã đổi thay từ công lênh tốt sang niềm
tin.
Lại
cũng có hệ-quả khác do tự khôn-ngoan qui-ước của Kitô-hữu mà ra. Đòi hỏi của niềm
tin, chia thế-giới thành những người có niềm tin và những người không tin,
trong đó hàm-ẩn bảo rằng: Thiên-Chúa có thiện-cảm với người có niềm tin hơn những
người không tin. Lối hiểu/biết như thế phản-ánh trong dân-gian, chí ít là những
người dân-dã cứ viết các giòng chữ trên đuôi xe, bảo rằng: “Kitô-hữu không là người toàn-hảo mà chỉ là
người được ơn tha-thứ mà thôi.”
Điều
này, lại ẩn-hàm sự việc bảo rằng: người theo đạo khác không được ơn tha-thứ và
Kitô-hữu từng làm điều gì đúng với Đạo; hoặc có được niềm tin đi Đạo, mới là những
người xứng-đáng được hưởng ơn tha thứ. Lại cũng có sự chia-rẽ lén-lút trong các
tuyên bố xuất từ sự giao-thoa/đám cưới giữa những người khôn-ngoan qui-ước và
Kitô-hữu.
Ngay
đến truyền-thống giáo-phái Luther, là những người chuyên nói mạnh về ân-huệ, lại
dễ-dàng trở-thành hệ-thống chuyên đòi-hỏi và có tưởng thưởng gia dĩ xảy ra bất
cứ ở nơi đâu. Từ lúc nói chuyện với các bạn đạo Kitô-hữu khác, tôi biết rằng kinh-nghiệm
của tôi không mang tính-cách đặc-thù riêng-tư nữa. Đa số các tường-thuật tôi
nghe được, đều là thông-điệp từ Kitô-hữu như một thông-điệp đòi buộc (về tin-tưởng
hoặc về hành-xử hoặc cả hai) và về phần thưởng, tiêu biểu hơn cả, là về “đời
sau”; và, đôi lúc cả về đời này nữa.
Thành
thử, việc Đức Giêsu lật đổ khôn-ngoan qui-ước, là lật đổ không chỉ mỗi xác-tín
trọng-yếu của thế-giới ngoài đời thôi, nhưng còn lật đổ nhiều hình-thức rất chung
chung của Đạo Chúa nữa.
(còn tiếp)
Gs Marcus J. Borg
biên-soạn
Mai
Tá lược dịch.
Gs Marcus J Borg:
No comments:
Post a Comment