Monday, 29 February 2016

Gs Geza Vermes: Khuôn trăng diện-mạo Ngài thay đổi: Đức Giêsu, Ađam Cuối cùng (bài 28)



Chương 4
Đức Kitô của ông Phaolô
là Con Thiên-Chúa,
Đấng Cứu-độ loài người nơi vũ-trụ
(bài 28)


Đức Giêsu,
Ađam cuối cùng

Ông Phaolô có cả một huyền-nhiệm gây ấn-tượng cũng rất nhiều, về Đức Kitô đã chết và trỗi dậy. Đây là tấn bi-kịch hoành-tráng bí-ẩn về ơn cứu-độ, do ông dàn-dựng, khởi-đầu bằng việc tạo-thành trời/đất và kết-thúc bằng việc vinh-danh Giêsu Đức Chúa, rất cánh-chung.

Ông Phaolô tạo hai nhân-vật lỗi-lạc từng đưa đường chỉ lối rất nhiều người. Hai nhân-vật ấy, là: Ađam-đầu-đời của nhân-loại và Ađam-Cuối-Cùng là Đức Giêsu, kèm theo đó lại có một số tư-tưởng về Đạo được nhân-cách-hoá, như: lỗi/tội, sự chết và Lề-luật, vv… vẫn thủ-giữ vai-trò yểm-trợ.

Cốt-truyện và bố-cục cuối cùng, được triển-khai cách rộng-rãi ở nhiều thư, như: thư Rôma và thư thứ nhất Côrintô. Theo các thư này, thì: bi-kịch được dàn-dựng tạo ra một đạo-lý về tội nguyên-tổ và việc chỉnh-sửa, hỏi rằng: làm sao, lỗi/tội con người lại được chỉnh và sửa theo công-bằng/chính-trực, được? Kể từ đó, đạo-lý của Giáo-hội Công-giáo và Thệ-Phản đã biến-đổi khi có sự-kiện Augustinô và hiện-tượng Luther, rất đặc-thù.

Với Phaolô, tất cả khởi-đầu bằng biến-cố ‘con-người-đầu’ xuất-hiện ở Địa-Đàng. Bằng hiện-tượng bất phục Thiên-Chúa, Ađam-đầu-đời đem lỗi/tội đến với loài người, nên đã dẫn về hệ-quả là sự chết, một tưởng-thưởng cho ông và hậu-duệ, như ông Phaolô từng nhắc chuyện này ở thư Rôma đoạn 5 câu 12-14, sau đây:

“Vì thế, cũng như chỉ vì một người, mà sự tội đã đột-nhập trần-gian; và vì tội, thì sự chết nữa; và như vậy, sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Vì chưng (từ đầu) cho đến Lề Luật, tội đã có trong thế-gian! Nhưng, Luật không có, kể tội làm sao? Ấy thế, mà sự chết đã ngự-trị từ Ađam cho đến Môsê, trên những kẻ không phạm tội bằng cách vi-phạm giống như Ađam, phản-ảnh của Đấng sẽ đến!”    


Bằng việc đóng-đinh-thập-giá và Phục-sinh-trỗi-dậy của Đức Giêsu-là-Ađam-Cuối, sự chết cũng từ đó đã vào với thế-gian, do người-đầu-đời bị đánh-bại và sự sống vĩnh-cửu lại chỉ dành cho những ai biết kết-hợp huyền-nhiệm với Đức Kitô. Hai ý-tưởng này, do ông Phaolô kiến-tạo, cốt để diễn-tả việc thực-thi Luật Môsê như trò xảo-thuật, nên ông coi các ý-tưởng ấy như việc chúc-phúc. Còn, ý-tưởng sau lại là nguyền-rủa. Ông Phaolô sử-dụng bi-kịch huyền-nhiệm, là để nói lên thân-phận con người nhờ hai nhân-vật chính đối-đầu với vũ-trụ, mỗi bên mặc lấy cho mình ý-tưởng về việc này, là để biểu-tỏ việc coi nhân-loại như một tổng-thể, trong đó Ađam-đầu-đời và Đức Kitô-Ađam-Cuối, là như thế.

Muốn hiểu thấu-đáo tầm nhìn khác-lạ của ông Phaolô, có lẽ ta cũng nên quay về truyện kể Ađam-Evà được coi là duyên-cớ dẫn về tội nguyên-tổ. Chương 3 sách Sáng Thế, được giới khoa-bảng và kinh-điển thời xưa/cũ coi như một diễn-trình kèm theo câu hỏi: làm sao sự chết lại bước vào địa-hạt nhân-sinh/phàm-trần, được?

Thần-thoại Lưỡng-Hà-Địa, coi cái chết của con người như hành-xử đồng-bóng rất thất thường của thần-linh, tức: các thần vẫn coi cái chết nằm trong khuôn khổ đạo-đức, cũng rất mực. Ađam-Evà Chúa tạo-dựng vào thời vàng son, nên thoát khỏi chuyện chết chóc/chôn vùi ở mộ-phần. Tội của Ađam-đầu-đời đây, là: tội bất phục, tức: lỗi/tội được dàn/dựng theo nguyên-tắc khi ta kể về ác-thần/sự dữ đội lốt rắn độc đã đưa đường chỉ lối cách sai-chệch, qua nữ-phụ. Và, qua mặt cả luật-pháp nên đã kéo theo án chết đặt cho cặp nam/nữ đầu đời, và cho hậu-duệ sinh sôi nảy-nở mãi.

Truyền-thống Do-thái-giáo, lại chấp-nhận sự chết một cách khắc-kỷ và lạ kỳ coi đó như thành-phần thân-phận con người. Trong khi các linh-hồn ở trong Đạo lại cứ mơ về cuộc sống đời sau, nhờ tiếp-cận với Thiên-Chúa một cách rộng mở vượt cả mộ-phần. Đến thế-kỷ thứ hai trước Công-nguyên, sự việc này được Do-thái-giáo cảm-nghiệm từ thời xảy đến sự-kiện tử-vì-đạo do Antiôchus Epiphanes ép/buộc kẻ tin phải Hy-Lạp-hoá hết mọi sự đến độ niềm tin vào sự sống vĩnh-cửu trở thành công-thức bài bản, có hệ-thống đã xuất-hiện với Do-thái-giáo.

Ta gặp điều này qua hình-ảnh xác/phàm loài người đã trỗi-dậy như chương 7 và chương 10 sách Macabê 2 có đề-cập. Từ độ rất sớm, bậc thày dạy thời hậu-Kinh-thánh đôi lúc cũng đã phẩm-bình về gốc-nguồn của sự chết. Và, các vị theo chủ-nghĩa Sô-vanh nam-tính lại cũng thích-nghi với tư-tưởng này, khiến nhiều lúc họ phải tìm cách miễn lỗi cho Ađam-đầu-đời, rất con người.

Sách Huấn Ca đoạn 25 câu 24, hoặc sách Khôn ngoan của Jesus Ben Sira đầu thế kỷ thứ hai đã tuyên-bố Evà thuộc nhóm tội-phạm, khi bảo rằng:

            “Tội khởi tự đàn bà, vì nó mà chúng ta hết thảy đều phải chết”

Sách Khôn ngoan Hy-Lạp, xuất-hiện vào cùng thế-kỷ, lại gán cho ác-thần/sự dữ, vốn tượng-trưng bằng con rắn trong Sáng Thế Ký, với những lời như sau:

“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.”         

Tuy thế, người đọc lại cũng không tìm đâu ra ý-tưởng về tội nguyên-tổ. Bởi, theo các học-giả Do-thái-giáo thời xưa/cổ, thì: tội chỉ là thành-phần của những gì do con người chế-tạo, mà thôi. Sách Ezra quyển 4 xuất-hiện vào cuối thế-kỷ thứ nhất sau Công-nguyên, lại gán/ghép các sai lầm cùng lỗ/tội này cho Ađam-đầu-đời vì ông tâm-can độc-ác (cor malignum) nên mới đi vào con đường tội/lỗi. Riêng văn-chương tư-tế, lại cũng nói về xu-hướng ngả về sự dữ mà tiếng Do-thái gọi là “yetzer ra’) nhưng đôi lúc cũng có xu-hướng tốt (tức: Yetzer tov). Đây là xu-hướng quay về động-thái bất-tuân chứ không phải tội/lỗi đích-thật mà hậu-duệ Ađam-đầu-đời đành gánh chịu.

Cũng hệt thế, trong các qui-định về hai Thần-khí ở Nội-qui cộng-đoàn Qumran, là cộng-đoàn đã lùi ngày/tháng ông Phaolô chừng trăm rưởi năm ngược về trước, thì: mỗi người đều được “thần-khí sự-thật và thần-khí bất-công” quản cai (X.1QS 3: 18-19). Tuy nhiên, một lần nữa, đây thật ra là lực đẩy hơn là lỗi/tội con người phải gánh chịu. Và, trong ba nguồn sách nói ở trên, cả đến xu-hướng nghiêng về sự dữ cũng do Chúa tác-tạo. Thế nên, không có dữ-liệu đồng-bộ nào từ Do-thái-giáo lại giải-thích được một cách chính-xác tầm nhìn của ông Phaolô.

Tầm nhìn lớn-lao do ông tạo-tác, đã triển-khai sự tương-phản giữa Ađam-đầu-đời như bậc tiên-tổ và Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu-độ nhân-loại. Cứ gia/giảm công-thức giản-đơn nhất, có thể nói: Ađam-đầu-đời chịu trách-nhiệm về tất cả sự dữ tạo ảnh-hưởng lên con người; và Ađam-Cuối lại khiến mọi sự nên tốt lành. Dùng ngôn-từ ông Phaolô viết ở thứ thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 21-22, ta có thể bảo:

“Vì chưng, sự chết do bởi một người, thì biệc kẻ chết sống lại cũng do bởi một người. Quả vậy, cũng như nơi Ađam mọi người đều phải chết, thì trong Đức Kitô, mọi người cũng sẽ được tác-sinh.”         


Và, trong thư Rôma đoạn 5 câu 12, tác-giả còn ghi rõ điều này hơn, khi ông bảo:

“Vì thế, cũng chỉ vì một người, mà sự tội đã đột-nhập trần-gian; và vì tội, thì sự chết nữa; và như vậy, sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội…”


Nói cách khác, chính lỗi/tội của Ađam-đầu-đời lại đã kích-động sự chết lên ông ta và hậu-duệ. Sự chết, là một trừng-phạt của lỗi/tội. Nói khác đi, nếu tất cả mọi người đều đáng chết, thì đó là vì tất cả mọi người đều đã phạm tội.

Nhưng, ông Phaolô lại lý-sự theo cách khác hẳn. Ông mải-mê giải-nghiệm và hiểu tội/lỗi theo cách riêng của ông. Với ông, tội là vi-phạm giới-lệnh. Sẽ không có tội và lỗi gì hết, nếu không có luật. Quả thật, Ađam-người-đầu đã vi-phạm luật do bởi ông không tuân-phục lệnh-truyền do Chúa ban ra, là: không ai được ăn hoa/trái cây “biết lành biết dữ” ấy.

Thế nhưng, kịp đến khi quà-tặng luật-pháp rất Torah được ban-bố trên núi Si-nai hơn hai ngàn năm sau, mà theo Truyền-thống trong Đạo, thì phần này được thêm vào sách Hậu-Sáng-Thế, thì: con cháu của ông không phải đối đầu với lề-luật bao giờ nữa, nên không thể đổ lỗi cho ông vì đã phạm luật. Dù sao thì, tất cả cũng đã chết trước khi Luật Môsê được ban-hành, bởi ngay đến kẻ tốt-lành/hạnh-đạo như Abram và các tổ-phụ khác cũng đều thế. Đó là điều, được ông Phaolô nói ở thư Rôma đoạn 5 câu 13-14, sau đây:

“Vì chưng, từ đầu cho đến Lề-Luật, tội đã có trong thế-gian! Nhưng luật không có, kể tội làm sao? Ấy thế mà sự chết đã ngự-trị từ Ađam cho đến Môsê, trên những kẻ phạm tội bằng cách vi-phạm giống như Ađam, phản-ảnh của Đấng sẽ đến!”              


Vì thế nên, tầm nhìn mang phong-cách rất Phaolô, lại khác hẳn mọi hiểu biết rất chung của người Do-thái-giáo về hệ-quả có từ truyền-thuyết Vườn Địa Đàng, thì lỗi/tội của Ađam-đầu-đời thật sự đã tác-động lên hậu-duệ của ông. Để chỉnh-đốn lại sai-sót nền-tảng này, cần thêm nhiều hơn nữa chứ không chỉ mỗi khoản luật này, dù có là Lề-Luật thánh-thiêng do Trên đặt ra đi nữa, cũng đều thế. Vậy nên, Lề Luật cần đổi-thay cấu-trúc nơi con người. Thay-đổi này, được chính Đức Kitô, Đấng mang trong mình cung-cách đổi-thay được ông Phaolô đề-cập rất rõ, ở thư Rôma đoạn 8 câu 3, như sau:

            “Điều vô-phương đối với Lề-luật bởi đã ra bất-lực vì xác thịt…”


Như thế có nghĩa, là: thân-xác con người bị suy-nhược do lỗi của Ađam, nay mở ra một tạo-dựng mới như ông Phaolô đã thêm vào thư thứ hai Côrintô đoạn 5 câu 17 và thư Galát đoạn 6 câu 15, những câu sau:

“Cho nên, ai ở trong Đức Kitô , kẻ ấy là tạo-thành mới: cũ đã qua đi, và này mới đã thành sự.”                

Hoặc:

“Vì chưng, cắt bì hay không cũng chẳng là gì cả, có chăng là vì đã nên tạo-thành mới, mà thôi.”


Vấn-đề đặt ra, là: làm sao ông Phaolô lại khiến phản-đề sắc-sảo của hai Ađam thêm rắc rối bằng việc đưa Lề-luật vào đó? Câu trả lời, có thể là: xem ra ông muốn tìm cách bắn chết nhiều con chim chỉ với một hòn đá nhỏ, mà thôi.  Ở giai-đoạn đầu, ông thiết-lập một nền thần-học bằng cách tuyên-bô kết-thúc qui-định đạo-giáo cổ hủ về lỗi/tội và về sự chết; rồi thay vào đó bằng sự tử-tế/đúng-đắn, bằng phục-sinh/trỗi dậy và sự sống. Sau đó, ông lại nhấn mạnh sự khác-biệt giữa Lề-luật vốn dĩ đòi nhiều chứ không sản-xuất cách tự-động ra “công việc” và “niềm tin” có hoa/trái của sự “tốt lành/hạnh-đạo” trước hoặc sau sự chết và phục-sinh/trỗi dậy của Ađam-Cuối.

Bằng vào tuyên-bố: Lề-luật không xứng-hợp để có thể tạo được sự “tốt lành/hạnh-đạo” nếu không có niềm tin, ông Phaolô đã thanh-minh cho lập-trường chính-trị của ông theo thuyết chống lại Đạo Chúa rất Do-thái-giáo của Phêrô và Giacôbê bằng việc đề-cao tự-do cho Giáo-hội phục-vụ dân ngoại của ông. Giáo-hội này, được giải-thoát khỏi giới-lệnh nào của Môsê không mang tính đạo-đức. Và, khỏi mọi ràng buộc luật lệ về tục cắt bì, vốn dĩ theo ông, là đặc-trưng của Lề-luật, nói ở đây.

Vậy, thái-độ của ông Phaolô đối với Lề-Luật là gì?
Thật khó nói, bởi nó vẫn mơ-hồ xuyên-suốt, chí ít là khi ông bị xé nát giữa hai thái-độ cực-đoan, một: thừa-tự từ Do-thái-giáo của tiên-tổ, còn: thái-độ kia đã nổi lên do động-thái “phò-Kitô” rất cực-kỳ của ông, tựa hồ động-thái phản-chống luật-pháp, chống cả những gì mang tính Do-thái-giáo (hoặc Do-thái-giáo cũng rất Đạo) theo kiểu bút-chiến. Đặc-trưng tiềm-ẩn chống Do-thái-giáo của ông đã thôi-thúc ông một cách công-khai tuyên-bố Lề-Luật là “linh-thiêng”, tốt-lành”,“lành-thánh”, như thư Rôma đoạn 7 câu 12 , 14, 16 từng khẳng-định:

“Cho nên, luật vẫn là thánh, và lệnh-truyền vẫn là thánh, ngay chính, tốt lành. Vậy ra điều tốt làng đã nên cái chết cho tôi?...
“Vì chưng, ta biết rằng: Lề-Luật hẳn là thần-thiêng, còn tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội.”
“Song, nếu tôi làm điều tôi không muốn, tức là tôi đồng ý với Lề-Luật là Lề-Luật hẳn là lương-hảo.”


Tuy thế, trong tranh-luận để biện-minh điều mình nói, ông Phaolô có đề-cập đến “sự nguyền-rủa của Lề Luật”, về việc “giải-thoát khỏi bị chết được khắc chữ trong đá”, về các bức thư từng “giết chết” đã dấy lên “nỗi đam mê vi-phạm mọi lỗi/tội” và sự việc quay về với “Luật của lỗi/tội và sự chết” bằng những lời lẽ viết trong thư Galát đoạn 3 câu 13 cũng như thư thứ hai Côrintô đoạn 3 câu 6-7, hoặc thư Rôma đoạn 7 câu 5 và đoạn 8 câu 2, như sau:

Thư Galát: “Đức Kitô đã chuộc ta khỏi án chúc dữ của Lề-Luật, một khi Ngài đã nên đồ chúc-dữ vì ta, bởi đã viết: Là đồ chúc dữ, phàm ai bị treo cây gỗ”..

Thư thứ 2 Côrintô: “Đấng đã ban cho tôi sức cáng-đáng làm kẻ phục-vụ Giao-ước mới, không phải văn-tự, mà là Thần-khí, vì chưng văn-tự thì giết chóc, Thần-khí mới tác-sinh. Mà, nếu việc phục-vụ án chết, khắc từng chữ trên những tấm đá, đã rạng vẻ vinh-quang, khiến cho con cái Israel không thể nhìn mặt Môsê được, bởi vinh-quang –cái vinh-quang chóng tàn – chói-lọi nơi mặt ông..”

Thư Rôma: “Vì xưa, khi ta còn trong xác thịt, thì các dục-tình tội lỗi nhờ thế Lề Luật mà hoạt-động nơi chi-thể ta, để sinh trái trăng cho sự chết…”

“Vì luật Thần-khí ban sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã cho ngươi được tự-do thoát luật của sự tội và sự chết.”


Ngoại trừ việc bất ngờ ám chỉ Luật Môsê là thứ “mô-phạm” như tay nô-lệ La-Hy đi theo con trẻ đi hoặc về từ trường học, vốn là người hướng-dẫn “cho đến khi Đức Kitô đến lại”, như lời thư Galát đoạn 3 câu 24, vẫn từng nói:

“Cho nên, Lề-Luật đã thành quản-giáo dẫn tới Đức Kitô, ngõ hầu ta được giải-án tuyên-công do tự đức tin.”

Và, luật Torah thường được trình-bày như việc thực-hiện vai-trò phải là tiêu-cực trong bức tranh lớn do ông Phaolô phác-hoạ về lịch-sử cứu-độ.

Khởi-đầu, bằng cách bảo những gì sai trái nơi con người, những gì con người không được phép làm, Lề-Luật thông-báo cho họ về sự tội. Bằng việc chỉ-thị cho con người biết mình không được tham muốn, nó gieo vãi hạt giống của tham muốn trong tâm can họ và từ đó, theo cách không chủ-tâm, lại đã dẫn dắt họ vào với sự tội, như lời thư Rôma đoạ 7 câu 7-11 từng nói rõ:

            “Vậy ta sẽ nói sao? Luật là tội ư?
Đừng nói gở! Song, chỉ ngang qua luật, tôi mới biết tội. Vì tôi đã không biết đến tham muốn, nếu luật đã chẳng nói: Ngươi chớ tham muốn! Chí ít là vì lệnh-truyền, tội đã tạo nên được trong tôi mọi sự tham muốn. Vì tội đã chết cứng rồi, nếu không có luật. Một thời, tôi đã được sống, mà không có luật; nhưng xảy đến lệnh-truyền, tội đã hồi-sinh, còn tôi, tôi đã chết. Thành thử, lệnh-truyền đành đến sự sống, lại là đành đến sự chết cho tôi, vì tội đã duồng dịp có lệnh-truyền mà quyến-rũ tôi, và giết chết tôi qua lệnh-truyền.”


Mối lo của ông Phaolô khi đó là: trong khi Lề Luật nói rất rõ về những gì người Do-thái-giáo phải né tránh hoặc thực-hiện, thì nó lại không trao quyền cho ông để giữ mình khỏi làm điều sai trái hoặc hành-động cho chính-đáng. Ông đã phải giáp mặt với các đối-thủ Do-thái-giáo hoặc người Do-thái-giáo nay theo Đạo Chúa qua một số các câu hỏi như lời thư Rôma đoạn 2 câu 21-23 từng viết rõ:

“Vậy ra ngươi giáo-hoá kẻ khác mà không giáo-hoá được chính mình? Ngươi giảng đừng trộm cắp, chính người lại trộm cắp!  Ngươi nói đừng ngoại tình, chính người là ngoại tình!Ngươi gớm-ghiếc ngẫu-tượng, nhưng ngươi đánh cướp đền miếu! Ngươi vinh-vang nơi Lề-Luật, song bởi người vi-phạm Lề-Luật, ngươi làm nhục cho Thiên-Chúa.”


Đối với ông, đó là những câu hỏi đầy hoa-mỹ qua đó câu trả lời sẽ lại là: đúng! Đúng là như thế.

Thành thử, trái nghịch với Đức Giêsu đích-thực là Đấng tìm thấy nơi Luật Torah của Thiên-Chúa nguồn-cội tối-cao của mội linh-hứng đạo-đức linh-thiêng, xét-đoán của ông Phaolô về Lề-Luật hầu hết rất then-chốt. Thêm vào đó, ngay đến khiá-cạnh tích-cực của Lề-Luật, vốn tạo-hứng cho các người Do-thái-giáo tìm cách sống một cuộc sống tốt-lành/hạnh-đạo, đều được diễn-tả ra như thiếu lực-đẩy để biến-đổi các lệnh-truyền lạnh-lùng thành hành-xử lành-thánh. Kiến-thức tối-thiểu về lệnh-truyền yêu thương người lân-cận không nhất-thiết dẫn đến hành-xử từ-bi/bác-ái nào hết. Đối với ông Phaolô, sự tốt-lành/hạnh-đạo và phải lẽ, trước nhất không xuất tự việc mình làm gì mà từ niêm tin, không phải từ “công việc” mà từ sự tin tưởng.              

Hoặc khi ông tuyên-bố với tất cả niềm tự-hào của chính mình như đã viết trong thư Galát đoạn 2 câu 15-16, vẫn bảo rằng:

“Chúng ta bẩm sinh là Do-thái, chứ không phải hạng tội lỗi do tự dân ngoại, song vì biết rằng người ta có được giải án tuyên công bởi việc làm của Lề Luật, là chỉ vì tin vào Đức Kitô Giêsu, nên chúng ta tin vào Đức Kitô Giêsu, để được giải án tuyên công do tự lòng tin vào Đức Kitô, chứ không phải do tự việc làm của Lề Luật: vì chưng do tự việc làm của Lề Luật, không xác phàm nào sẽ được giải án tuyên công.”


Ông Phaolô tìm thấy nơi việc diễn-giải truyện kể về Abraham lời chứng cuối cho thấy là: niềm tin-tưởng (Kinh-thánh dùng cụm từ emunah để diễn-tả việc tín-nhiệm vào lòng từ-bi/nhân-hậu của Thiên-Chúa, chứ không từ “việc làm” đã khiến con người được Thiên-Chúa chấp-nhận, như lời thư Rôma đoạn 4 câu 1-3, từng xác-chứng:

“Vậy ta sẽ nói sao: Abraham, tổ-phụ của ta về phần xác đã gặp được gì? Vì giả như Abraham đã tự việc làm mà được giải án tuyên công, thì ông có lý mà vinh-vang! Song, không phải đối với Thiên-Chúa! Sách thánh nói gì? Abraham đã tin vào Thiên-Chúa và sự ấy đã được kể cho ông như sự công-chính.”


Chính do bởi sự tin cậy hoàn-toàn của Tổ-phụ vào lời hứa đáng ngờ của người con vào tuổi già của chính mình và người vợ mình mà ông biết được sự tốt-lành/hạnh-đạo, và không do việc tuân-thủ một số lệnh-truyền mà ra. Dĩ nhiên, ở đây không có vấn-đề về hiệu-lệnh của Luật Môsê do bởi Abraham đã sống đến 500 năm trước Môsê, nữa.

Trên thực tế, những gì ông Phaolô quyết bãi bỏ/không xét tới, là tinh-hoa của “việc làm” nơi Lề-Luật, tục cắt-bì, lập-trường bị ghét cay/ghét đắng trong cuộc bút chiến mà ông từng chống hành-động Do-thái-hoá đạo-giáo. Chẳng phải sau này ông mới khắt khe chỉ-trích tục lệ cắt da qui-đầu như thế đâu, nhưng là việc đau lòng khen thưởng một người đã vào tuổi chin mươi vẫn còn tin-tưởng một cách vô điều-kiện vào lời của Chúa, như lời lẽ nhắc lại ở sách Sáng Thế đoạn 17 câu 24, sau đây:

“Abraham thọ chín mươi tuổi khi ông chịu cắt bì xác thịt da qui đầu của ông.”

Ông Phaolô không thể thông-cảm nhiều hơn thế, khi ông nói rõ sự việc ở thư Rôma đoạn 4 câu 9-12, sau đây:

“Vậy, lời chúc phúc ấy tuyên-bố trên giới cắt bì, hay cả trên giới không cắt bì? Quả như chúng tôi vừa nói: Tin đã được kể cho Abraham như sự công-chính. Vậy đã được kể thế nào? Đã cắt bì hay không cắt bì? Không phải là đã cắt bì, nhưng là không cắt bì ! Và ông đã lĩnh lấy dấu cắt bì niêm-ấn cho sự công-chính của lòng tin (ông đã có) trong trạng-thái không cắt bì, để ông nên cha mọi kẻ tin mà không có cắt bì, ngõ hầu lòng tin ấy được kể là sự công-chính cho họ; và là cha cho giới cắt bì, nhưng không phải cho những kẻ chỉ nại vào cắt bì mà thôi, nhưng là cho những kẻ dõi theo vết bước đức tin, Abraham tổ-phụ chúng ta đã có trong trạng-thái không cắt bì.”


Ông Phaolô lý-luận: từ Môsê cho đến Ađam-Cuối, đã có hầu hết chế-độ lâm-thời của Lề-Luật. Kịp đến lúc Đức Kitô chuộc lại sự chết bằng sự sống lại, Lề Luật này đã từng diễn-tiến đúng mục-đích. Theo như thế, thì ngôn-từ rất Phaolô như thư Rôma đoạn 10 câu từng minh-xác như sau:

            “Vì đích cùng của Lề-Luật là Đức Kitô, nguồn công-chính cho mọi kẻ tin.”

Để tóm lược ảnh-hình rất phức-tạp, ông lại tìm cách quanh co bằng những lý-luận rất vớ vẩn, như thư Rôma đoạn 5 câu 18-21 có những ý-tứ sau đây:

“Ấy vậy, như sự sa-ngã của một người đã thành án phạt cho hết thảy mọi người, cũng vậy, công-đức của một người đã thành giải án tuyên công đem lại sự sống cho mọi người hết thảy. Vì như do sự bất tuân của một người, nhiều người đã bị liệt hàng tội nhân, cũng vậy, vì sự vang-phục của một người, nhiều người sẽ được liệt hàng công-chính.

Luật đã xen vào để sa ngã gia-tăng; song, ở đâu tội đã gia-tăng, thì ơn đã siêu-bội, ngõ hầu cũng như tội đã ngự-trị bằng sự chết, thì ơn cũng ngự-trị nhờ sự công-chính cho đến sự sống đời đời, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”

                                                                        (còn tiếp)

Gs Geza Vermes biên-soạn,
Mai Tá lược dịch.
                  



      
    

No comments: