Tuesday, 23 February 2016

Gs Geza Vermes: Chết và sống lại nơi Đức Kitô với thần-học Phaolô (Bài 27)



Chương 4
Đức Kitô của ông Phaolô
là Con Thiên-Chúa,
Đấng Cứu-độ loài người nơi vũ-trụ
(bài 27)


Chết và sống lại nơi Đức Kitô
với thần-học Phaolô

Sự chết và sống lại, cũng như ơn cứu-chuộc nhân-loại khỏi mọi lỗi/tội và việc sẻ-san sự sống mới do Đấng Cứu Thế thông-chuyển, vẫn là các khiá-cạnh của cùng một thực-tại tâm-linh nơi tư-duy thần-học do ông Phaolô tạo ra.

Đoạn cuối của vinh-quang Phục Sinh vốn soi-rọi nỗi-niềm chán-ngán/tuyệt-vọng ở thập-tự và do thập-tự luôn có trước phục-sinh, nên việc Phục-hồi Sinh-lực nơi Đức Kitô được coi như trình-tự và hệ-quả thiết-yếu sau cái chết của Ngài.

Thiết tưởng, cũng không nên hiểu sai trái những điều tôi trình-bày ở đây. Hơn nữa, sẽ là chuyện lố-lăng, kỳ-quặc nếu ta hiểu ngầm rằng: đối với ông Phaolô, việc Đức Giêsu Phục-Sinh quang-vinh chỉ có tầm quan-trọng thứ-yếu, mà thôi.

Không có Phục-Sinh, chắc hẳn nền-tảng thần-học của Đạo dù sâu xa/tráng-lệ cách mấy đi nữa, cũng sụp-đổ như bức tường/thành Giêrikhô trước tiếng kèn thúc-quân của Giôshua, là dũng tướng. Phản-ứng/phản-hồi trước sự ngờ-vực vẫn lưu-truyền nơi dân con thành Côrintô về Phục-Sinh do ông Phaolô tạo ra. Nên, ông mới tỏ-bày sự giận-dữ kịch-liệt khi viết bức thư thứ nhất gửi cộng-đoàn Côrintô trong đó có đoạn 15 câu 12-14 nói rõ như sau:

“Nếu chúng tôi rao giảng rằng: Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao-giảng của chúng tôi nên trống-rỗng, và cả đức tin của anh em nữa, cũng ra rỗng-tuếch.”   


Theo ông, Phục-sinh là đối-tác trung-thực của thập-giá: Đức Giêsu chết đi, là chết cho nhân-loại và Ngài trỗi-dậy là vì họ và cho họ, như thư Rôma đã xác-định ở đoạn 4 câu 25, sau đây:

“Đức Giêsu là Đấng đã bị phó nộp vì các lỗi-lầm của ta và đã sống lại là để ta được giải án tuyên công.”  


Việc Ngài trỗi dậy từ cõi chết cách biểu-trưng, đã bộc-lộ sự toàn-thắng trên mộ-phần đầy chết-chóc, như ông Phaolô có viết trong thư Rôma ở đoạn 6 câu 9 như sau:

“Bởi biết rằng: Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không bao giờ Ngài chết nữa, sự chết không còn bá-chủ được Ngài.” 


Lướt-vượt ảnh-hình về việc sự sống thắng sự chết, Người Con của Chúa được ông Phaolô quan-niệm như cội nguồn của việc tái-sinh với kẻ tin, rằng: ông viết điều này, ở thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 22, có những giòng như sau:


“Quả thế, cũng như nơi Ađam mọi người đều phải chết, thì trong Đức Kitô mọi người cũng sẽ được tác-sinh.” 


Việc tác-sinh này có hai nghĩa: Nghĩa đầu, mang tính biểu-tượng đặc-thù hoặc theo ngôn-ngữ nhiệm-tích tư-riêng của Giáo-hội, thì thực-tại cánh-chung cốt nói lên rằng: thực-sự nhiều người vẫn trông-đợi việc này xảy đến, vào lần Chúa quang lâm lần thứ hai. Với lối nối-kết này, ảnh-hình do ông Phaolô tạo nên, vẫn giả-thiết có mộ-phần. Bởi, nếu không có mộ-phần, thì thân xác đã chết của Đức Kitô sẽ không được Thiên-Chúa vực dậy, như ý của thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 4 từng biện-giải:


“Người đã bị chôn-cất, và Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh.”  


Không ai biết chắc được những điều ông Phaolô suy-nghĩ đã xảy đến không, nhưng ông lại cứ nhấn mạnh rằng: thân xác trỗi-dậy của Đức Kitô, hoặc bất cứ thân nào khác có thể cũng đã trỗi dậy, không là xác-phàm thể chất ở dưới đất, mà là thân mình linh-đạo thuộc về trời của Ngài đã được thay thế, như ý/lời ở thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 42-49, lại vẫn nói:

“Cũng vậy, về việc kẻ chết sống lại:
gieo xuống trong hư-hoại, trỗi-dậy trong bất-hoại;
gieo xuống trong ô-nhục, trỗi-dậy trong vinh-quang;
gieo xuống trong yếu đuối, trỗi-dậy trong quyền-năng;
gieo xuống là thân-thể có sinh-khí, trỗi dậy là thân thể có thần-khí.
Cũng vậy, đã có lời chép:
Ađam, người thứ nhất đã thành sinh-khí sống-động;
còn Ađam cuối cùng đã nên thần-khí tác-sinh. Nhưng không phải thần-thiêng có trước mà là khí-huyết, rồi mới đến thần-thiêng. Người thứ nhất do tự đất là người trần ai; người thứ hai do tự trời.  
Người trần-ai kia sao, các người trần-ai khác cũng vậy;
Người thiên-thai kia sao, các người thiên-thai khác cũng vậy.
Và, cũng như ta mang hình ảnh người trần ai, ta cũng hãy mang lấy hình-ảnh của người thiên-thai!” 

Dù sao đi nữa, thân mình linh-đạo-thuộc-về-trời nói ở đây, từng được tông-đồ và môn-đệ và sau đó lại cũng được chính ông Phaolô minh-xác, như ông có ghi ở thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 5-8, như sau:


“Ngài đã hiện ra cho Kêpha, rồi cho Nhóm Mười Hai. Rồi, Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông đến nay vẫn còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi, Ngài hiện ra cho ông Giacôbê, đoạn cho các Tông Đồ. Sau hết, Ngài đã hiện ra cho tôi nữa, không khác một đứa con ranh.”


Chính ông Phaolô cũng không biết rằng: thân mình trỗi dậy của Đức Kitô lại đã ra đi sau một loạt các lần hiện đến vào tháng ngày đầu sau khi Ngài trỗi-dậy; mà chẳng ai nghĩ rằng: thân mình ấy vẫn còn tồn-tại ở dưới thế này, nữa.

Quả thật, người đọc lại sẽ nhận-xét từ truyện do ông Phaolô kể về sự quang-lâm của Đức Chúa đã trỗi-dậy đến từ trời, rồi còn trở về lại như “hoa quả đầu mùa cho những ai đã ngã gục trong “giấc ngủ vùi” mà thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 23 từng nói đến:

“Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi đến các kẻ thuộc về Ngài, vào buổi quang-lâm của Ngài. 

Đó là: chuỗi ngày dài nổi đình nổi đám gồm với nhiều người từng đi theo Ngài.

Nói đơn-giản, thì: với ông Phaolô và các tín-hữu Đạo Chúa, việc Đức Giêsu phục-sinh/trỗi-dậy biểu-tỏ khả-năng tái-tạo cuộc sống vẫn dành cho những kẻ lỗi phạm theo cách linh-đạo đến chỗ chết, cả những người nhờ kết-hiệp cái chết của Đức Kitô được thừa-hưởng phần sẻ-san trong sự sống mới của mình.

Nhờ cách-thức giản-đơn biểu-tỏ sự cao cả do ông Phaolô diễn-giải, việc kết-hợp bí-nhiệm này, mới trở thành thực-tại cho mỗi kẻ tin. Nghi-thức này, khi xưa gọi là phép tẩy rửa do ông Phaolô quan-niệm. Nói cách khác, ông Phaolô đã dọi lại lề-lối/tập-tục đầy huyền-bí của Đông Phương tràn lan trong thế-giới La-Hy, vào dạo ấy.

Ảnh-hình đầu về tẩy rửa, từ khởi-thủy chỉ là nghi-thức dầm mình của Do-thái-giáo, vốn hướng về việc tẩy-xoá mọi uế-tạp cả thể xác lẫn tinh-thần. Khi xưa, nghi-thức này được coi như nghi-lễ tẩy-uế định-vị cho những người theo Do-thái-giáo, như: thượng tế, trợ-tế Lê-vít và chúng dân Do-thái trước khi cho họ được phép bước vào đền Giêrusalem để tham-gia phụng-thờ, ở đền thánh.

Trên thực-tế, thì nghi-lễ tắm-rửa kết-hợp với việc vệ-sinh biểu-trưng nơi việc tẩy-rửa mọi thứ uế-tạp nhắm vào mọi thứ. Luật-lệ áp-đặt việc này, là nhằm dứt-đoạn một số tật/bệnh lây/lan như xáo-trộn về sinh-dục hoặc về da mà tiếng chuyên môn gọi là “phung-cùi/ghẻ-lở” và/hoặc “xuất-huyết”. Nghi-lễ tắm-rửa cũng tác-tạo tình-trạng thanh-khiết sau khi tiếp-cận thi-thể người chết, hoặc sau lần giao-thoa/ăn nằm thể-xác với cả hai giới, và/hoặc sau kỳ kinh và sinh-đẻ, ở phụ-nữ.

Một số dạng-thức đặc-thù của tẩy/rửa nơi Do-thái-giáo thời cổ/xưa, chỉ thực-hiện duy-nhất một lần, mà thôi. Đó, là sám-hối/tẩy rửa do ông Gioan Tẩy-Giả rao-truyền mang nghĩa một xoá tẩy mọi uế-tạp của lỗi/tội, rồi định-vị mà về với cuộc sống lành-thánh, ngõ hầu đi vào Vương Quốc Nước Trời.                             

Dường như phái Essênê Qumran khi xưa, cũng đã hiện-thực nghi-thức tắm/rửa đặc-thù cốt cải-tân linh-đạo trong suốt lễ-nghi cử-hành lập giao-ước đi vào bè/nhóm tách riêng như cảo bản 1QS 5:13-14 từng ghi lại. Do-thái-giáo của thày tư-tế dựa vào tập-tục có từ thế-kỷ thứ nhất trước Công-nguyên, lại cũng bao gộp dân ngoại gồm cả nam lẫn nữ bất cứ ai muốn quay về với Do-thái-giáo hầu thực-hiện cuộc tẩy rửa cải đạo cộng với tục cắt bì nếu là nam.

Tuy thế, dù có tháp-nhập lại hoặc là trường-hợp có một không hai, việc tẩy rửa theo kiểu Do-thái-giáo luôn duy-trì tính biểu-tượng của nó lúc đầu gồm có việc tắm/táp hoặc tẩy sạch bằng nước.

Nói chung thì, ông Phaolô không thiết-tha gì đến nghi-thức tẩy/rửa và nếu ông có sử-dụng ý-niệm uế-tạp thế nào đi nữa, thì ông luôn hàm-ngụ ý-nghĩa luân-lý đạo-đức thôi. Tẩy rửa, đối với ông, được điểm thêm một ý-nghĩa ẩn-dụ đầy nghĩa bóng chứ không can-dự gì đến việc rửa sạch bằng nước, chút nào hết. Việc tẩy/rửa ở trong hồ, trước hết và trên hết, tượng-trưng cho mộ-phần từ nơi đó Đức Giêsu đã trỗi dậy vào ngày Phục Sinh quang vinh.

Thế nên, khi có người thực-thi nghi-thức khai-tâm linh-đạo đi vào với huyền-nhiệm Đạo Chúa, họ vẫn dầm mình trong đó, có nghĩa: chôn sâu vào giòng tẩy rửa, tức: họ mặc lấy sự chết của Đức Kitô khi đến với Ngài mà đi vào chốn mộ-phần. Và, khi người được tẩy/rửa trỗi-dậy, là: họ lại một lần nữa thực-thi giao-tiếp với Đức Kitô phục-sinh theo cách bí-nhiệm. Từ đó, họ thuộc về Ngài. Và, bi-kịch này được ông Phaolô diễn-đạt bằng một số ngôn-từ đau-buốt như ông có ghi chú trong thư Rôma đoạn 6 câu 3-4, bảo rằng:


“Anh chị em không biết sao: hết thảy chúng ta đã được thanh-tẩy trong Đức Kitô Giêsu, thì chính trong sự chết của Ngài mà ta đã được thanh-tẩy? Vậy, nhờ thanh-tẩy, ta đã được mai-táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh-quang của Cha, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới.”


Thành thử, bằng việc diễn-giải lại ảnh-hình cội-nguồn/ban đầu về nghi-thức tẩy/rửa, ông Phaolô đã đem đến cho tín-hữu Đạo Chúa một phương-án khiến cho công việc của họ làm có được đặc-trưng/đức tính mang cả hai ý-nghĩa vừa là thập-giá vừa là phục-sinh/trỗi dậy. Không cần nói nhiều, khi dẫn-nhập việc tẩy/rửa cho con trẻ theo cách chung chung, thì hành-xử xối/rửa nước được thay cho việc dầm mình vào cung-cách rửa sạch với Bí-tích này, vốn dĩ khi xưa chỉ dành riêng cho người lớn vào lúc khai-tâm linh-đạo tổ-chức vào lễ Phục-Sinh. Tuy nhiên, làm thế thì giải-pháp tượng-trưng theo khuynh-hướng của nhóm đồ-đệ ông Phaolô tự-khắc bị huỷ-bỏ như thể lỗi thời.

Thêm vào đó, là hệ-quả tức thời của việc kết-hiệp đầy bí-nhiệm này với Đức Chúa Phục Sinh mà ông Phaolô mường-tượng thay cho sự/việc sống phục-vụ Thiên-Chúa “ngang qua Đức Giêsu Kitô” cho việc hiện-hữu đầy lội/tội, là việc thanh-tẩy tượng-trưng cho việc trổi-dậy, lại cũng tượng-trưng cho việc cấp vé tham-gia vào sự chiến-thắng cuối cùng của Đức Kitô và các dự-tòng của Ngài vào với Phục-sinh cuối, rất đích-thực.

Như ta biết, triển-vọng về sự chiến-thắng chung-cuộc của Đức Kitô và các dự-tòng của Ngài, theo thần-học của ông Phaolô, lại không là biến-cố thuộc tương-lai xa vời, nhưng lại trông đợi sẽ xảy ra ngay vào thời các tông-đồ và thế hệ của Ngài, nữa. Quả thật, ông Phaolô từng lặp đi lặp lại nhiều lần về kịch-bản của nghi-thức cuối cùng này.

Mỗi một chi-tiết đều được ông am-tường, rất rõ rệt. Đức Kitô được các thiên-thần hộ-thủ của Ngài vây quanh, khi ấy sẽ từ trời mây cao chót vót mà đến. Và vị tổng-lãnh thiên-thần, chắc chắn là thần-sứ Mikae –là vị cầm đầu đăng cai ở thiên-quốc sẽ không ở mỗi nơi đây, nhưng còn ở các thư cũng như Cảo-bản Biển Chết – sẽ thổi kèn đồng kêu gọi những người được thanh-tẩy đã chết sẽ vực trở lại với sự sống, cũng rất chóng.

Có lẽ, còn có cả ông Phaolô và các tín-hữu Đạo Chúa đang sống sót được tham-gia vào đội ngũ ấy, xác phàm và máu mủ của họ sẽ chuyển-đổi thành thân mình linh-thiêng và họ cũng sẽ được nâng-nhấc đến với Đức Chúa đang ngự trị trên mây trời vần vũ, như thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 51-52 từng bảo:

“Này đây mầu-nhiệm, tôi xin nói với anh chị em: ta sẽ không chết hết thảy, nhưng hết thảy ta sẽ được biến-đổi, bất thần, trong nháy mắt, vào tiếng loa cuối cùng  - vì loa sẽ thổi – và người chết sẽ trỗ-dậy bất hoại, và ta sẽ biến-đổi.” 



Cuối cùng thì, Đức Chúa Phục sinh chiến-thắng sẽ đạt đến mọi thứ, cả cái chết, như thư thứ nhất Côrintôi đoạn 15 câu 28 lại cũng viết:

“Vì khi mọi sự đã phục quyền Ngài, thì bấy giờ Con cũng sẽ phục quyền Đấng đã bắt mọi sự phục quyền mình, ngõ hầu Thiên-Chúa là tất cả trong mọi sự.”  


Và, cứ thế, ông Phaolô lại viết nhiều hơn, như thư thứ nhất Thessalônikê đoạn 4 câu 16-17, từng nói:

“Bởi, khi lệnh vang ra, theo tiếng tổng lãnh Thiên thần và loa của Thiên-Chúa, thì tự trời chính Chúa sẽ ngự xuống và những kẻ chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước, rồi chúng ta, những kẻ còn sót lại, chúng ta sẽ được quyện lên các tầng mây làm một với họ, đi đón Chúa trên làn khí. Và như vậy, chúng ta sẽ được ở với CHúa luôn luôn.”


Người được tẩy/rửa trỗi dậy từ cõi chết sẽ đi thẳng đến sự chiến-thắng cánh-chung của Đức Kitô và của tín-hữu Đạo Chúa. Thật sự thì, cả hai kết hợp thành một, nhờ có ngòi bút lông của bậc thày Phaolô đưa đẩy, nằm trong cùng một bích-hoạ hoành-tráng lên mây trời lủng-lẳng đầy kịch-tính.

Sau những giờ phút rất ngưỡng-mộ đứng trước kiệt-tác của ông Phaolô, mọi người mới thấy được sự phiền-toái thắc-mắc trườn bò vào tâm-não của mọi người. Bởi, bức tranh hoành-tráng ấy không hoàn-tất.

Sau buổi hội-ngộ này với Đức Chúa trên làn khí, thì việc gì sẽ xảy đến với dân con tín-hữu đây? Phải chăng, các vị ấy lại sẽ tiếp-tục hành trình của mình trên mây làn vần vũ hướng về bẩy tầng trời hoặc họ sẽ lại rơi xuống mặt đất như công dân thường-tình của Giêrusalem từ trên cao sau khi đã hạ cánh thay thế cho Sion mặt đất?

Và điều gì lại sẽ xuất-hiện với những người không ở “trong Đức Kitô”? Ông Phaolô đã không thở ra câu nào về chuyện như thế. Phải chăng những người này biến mất dạng hoặc trở thành tự huỷ?

Ảnh-hình do ông Phaolô vẽ vào cuối thư Thessalônikê lại không gồm tóm cảnh phán xét nào hết. Chuyện ở đây, không phải là không thường xuyên xảy đến ở các thư do chính mình viết, ông Phaolô lại không đi đến hệ-quả nào hết. Như, ở thư Rôma đoạn 2 câu 16, ông lại tuyên bố đôi điều mà không nói làm sao và khi nào, như từng bảo:


“Đó là điều sẽ lộ ra trong ngày Thiên-Chúa đoán-xét những điều khuất-ẩn nơi loài người –chiếu theo Tin Mừng tôi rao giảng – nhờ Đức Kitô Giêsu.”


Tuy nhiên, ở thư thứ hai Côrintô đoạn 5 câu 10 ông lại nói đến chuyện xét đoán của Chúa, như:                 

“Vì chưng, ta hết thảy sẽ phải xuất đầu lộ diệntrước toà Đức Kitô, để mỗi người lĩnh lấy thành-quả đời mình trong thân xác, xứng với các việc đã làm, lành hoặc dữ.”


Rõ hơn nữa, ở thư thứ 2 Thessalônikê, ông nói huỵch-toẹt ra ngoài việc Đức Giêsu xuất-hiện từ trời cao có các thần-sứ quyền-uy nổi lửa đánh trả-đũa những ai không tuân-thủ Tin Mừng của Giêsu Đức CHúa, như lời thư thứ 2 Thessalônikê đoạn 1 câu 7-9, từng nói rõ:

“Quả là công-minh nơi Thiên-Chúa, là: những kẻ gây gian-truân cho anh chị em lại có gian-truân báo đền, và cho anh chị em, những kẻ phải gian-truân, được phúc thanh-nhàn với chúng tôi vào thời mạc-khải từ trời của Đức Giêsu với các thiên-thần của quyền-năng Ngài, dùng ngọn lửa hoả-hào đoán-phạt những kẻ không biết Thiên-Chúa, và không không vang-phục Tin Mừng của Chúa chúng ta, Đức Giêsu. Những kẻ ấy sẽ bị án hư đi đời đời, xa mặt Chúa và xa cách vinh-quang quyền-lực của Ngài.”


Mặt khác, nếu theo-dõi câu nói của ông ở nơi khác, người đọc lại sẽ nghĩ rằng ông Phaolô hy-vọng vào một chuyển-đổi vũ-trụ vào trước thời-gian Chúa đến lại. Hệt như thư thứ nhất Côrintô đoạn 4 câu 5 lại quả-quyết:


“Nhục thật, để tôi phải nói với anh chị em. Thế ra, trong anh chị em không có được một người khôn-ngoan nào để có thể phân-xử giữa anh chị em mình ư?”

Thật ra, xem chừng ông Phaolô đã không thay đổi tâm não của ông và tầm nhìn của ông lại cứ giao-động giữa đức-tính từ-bi nhân-hậu của Thiên-Chúa, một trỗi-dậy chỉ dành riêng cho các kẻ tin mà thôi, và sự chia-rẽ vốn có lâu nay giữa chiên và dê đã rõ ràng với chuyện thưởng/phạt riêng rẽ, thích-hợp, là như thế.
                                                                                                            (còn tiếp)

Gs Geza Vermes biên-soạn
Mai Tá lược dịch.           
 
                                      

No comments: