Chương 4
Đức Kitô của ông
Phaolô
là Con Thiên-Chúa,
Đấng Cứu-độ loài người
nơi vũ-trụ
(bài 27)
Chết và
sống lại nơi Đức Kitô
với thần-học
Phaolô
Sự
chết và sống lại, cũng như ơn cứu-chuộc nhân-loại khỏi mọi lỗi/tội và việc sẻ-san
sự sống mới do Đấng Cứu Thế thông-chuyển, vẫn là các khiá-cạnh của cùng một thực-tại
tâm-linh nơi tư-duy thần-học do ông Phaolô tạo ra.
Đoạn
cuối của vinh-quang Phục Sinh vốn soi-rọi nỗi-niềm chán-ngán/tuyệt-vọng ở thập-tự
và do thập-tự luôn có trước phục-sinh, nên việc Phục-hồi Sinh-lực nơi Đức Kitô được
coi như trình-tự và hệ-quả thiết-yếu sau cái chết của Ngài.
Thiết
tưởng, cũng không nên hiểu sai trái những điều tôi trình-bày ở đây. Hơn nữa, sẽ
là chuyện lố-lăng, kỳ-quặc nếu ta hiểu ngầm rằng: đối với ông Phaolô, việc Đức
Giêsu Phục-Sinh quang-vinh chỉ có tầm quan-trọng thứ-yếu, mà thôi.
Không
có Phục-Sinh, chắc hẳn nền-tảng thần-học của Đạo dù sâu xa/tráng-lệ cách mấy đi
nữa, cũng sụp-đổ như bức tường/thành Giêrikhô trước tiếng kèn thúc-quân của
Giôshua, là dũng tướng. Phản-ứng/phản-hồi trước sự ngờ-vực vẫn lưu-truyền nơi dân
con thành Côrintô về Phục-Sinh do ông Phaolô tạo ra. Nên, ông mới tỏ-bày sự giận-dữ
kịch-liệt khi viết bức thư thứ nhất gửi cộng-đoàn Côrintô trong đó có đoạn 15
câu 12-14 nói rõ như sau:
“Nếu chúng tôi rao giảng rằng: Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi
dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu
kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã
không trỗi dậy, thì lời rao-giảng của chúng tôi nên trống-rỗng, và cả đức tin của
anh em nữa, cũng ra rỗng-tuếch.”
Theo
ông, Phục-sinh là đối-tác trung-thực của thập-giá: Đức Giêsu chết đi, là chết cho
nhân-loại và Ngài trỗi-dậy là vì họ và cho họ, như thư Rôma đã xác-định ở đoạn
4 câu 25, sau đây:
“Đức Giêsu là Đấng đã bị phó nộp vì các lỗi-lầm của ta và
đã sống lại là để ta được giải án tuyên công.”
Việc
Ngài trỗi dậy từ cõi chết cách biểu-trưng, đã bộc-lộ sự toàn-thắng trên mộ-phần
đầy chết-chóc, như ông Phaolô có viết trong thư Rôma ở đoạn 6 câu 9 như sau:
“Bởi biết rằng: Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không bao
giờ Ngài chết nữa, sự chết không còn bá-chủ được Ngài.”
Lướt-vượt
ảnh-hình về việc sự sống thắng sự chết, Người Con của Chúa được ông Phaolô
quan-niệm như cội nguồn của việc tái-sinh với kẻ tin, rằng: ông viết điều này, ở
thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 22, có những giòng như sau:
“Quả thế, cũng như nơi Ađam mọi người đều phải chết, thì trong
Đức Kitô mọi người cũng sẽ được tác-sinh.”
Việc
tác-sinh này có hai nghĩa: Nghĩa đầu, mang tính biểu-tượng đặc-thù hoặc theo
ngôn-ngữ nhiệm-tích tư-riêng của Giáo-hội, thì thực-tại cánh-chung cốt nói lên
rằng: thực-sự nhiều người vẫn trông-đợi việc này xảy đến, vào lần Chúa quang
lâm lần thứ hai. Với lối nối-kết này, ảnh-hình do ông Phaolô tạo nên, vẫn giả-thiết
có mộ-phần. Bởi, nếu không có mộ-phần, thì thân xác đã chết của Đức Kitô sẽ
không được Thiên-Chúa vực dậy, như ý của thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 4 từng
biện-giải:
“Người đã bị chôn-cất, và Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo
lời Kinh Thánh.”
Không
ai biết chắc được những điều ông Phaolô suy-nghĩ đã xảy đến không, nhưng ông lại
cứ nhấn mạnh rằng: thân xác trỗi-dậy của Đức Kitô, hoặc bất cứ thân nào khác có
thể cũng đã trỗi dậy, không là xác-phàm thể chất ở dưới đất, mà là thân mình
linh-đạo thuộc về trời của Ngài đã được thay thế, như ý/lời ở thư thứ nhất
Côrintô đoạn 15 câu 42-49, lại vẫn nói:
“Cũng vậy, về việc kẻ chết sống lại:
gieo xuống trong hư-hoại, trỗi-dậy trong bất-hoại;
gieo xuống trong ô-nhục, trỗi-dậy trong vinh-quang;
gieo xuống trong yếu đuối, trỗi-dậy trong quyền-năng;
gieo xuống là thân-thể có sinh-khí, trỗi dậy là thân thể
có thần-khí.
Cũng vậy, đã có lời chép:
Ađam, người thứ nhất đã thành sinh-khí sống-động;
còn Ađam cuối cùng đã nên thần-khí tác-sinh. Nhưng không
phải thần-thiêng có trước mà là khí-huyết, rồi mới đến thần-thiêng. Người thứ
nhất do tự đất là người trần ai; người thứ hai do tự trời.
Người trần-ai kia sao, các người trần-ai khác cũng vậy;
Người thiên-thai kia sao, các người thiên-thai khác cũng
vậy.
Và, cũng như ta mang hình ảnh người trần ai, ta cũng hãy
mang lấy hình-ảnh của người thiên-thai!”
Dù
sao đi nữa, thân mình linh-đạo-thuộc-về-trời nói ở đây, từng được tông-đồ và
môn-đệ và sau đó lại cũng được chính ông Phaolô minh-xác, như ông có ghi ở thư
thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 5-8, như sau:
“Ngài đã hiện ra cho Kêpha, rồi cho Nhóm Mười Hai. Rồi,
Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông đến nay vẫn
còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi, Ngài hiện ra cho ông Giacôbê, đoạn
cho các Tông Đồ. Sau hết, Ngài đã hiện ra cho tôi nữa, không khác một đứa con
ranh.”
Chính
ông Phaolô cũng không biết rằng: thân mình trỗi dậy của Đức Kitô lại đã ra đi
sau một loạt các lần hiện đến vào tháng ngày đầu sau khi Ngài trỗi-dậy; mà chẳng
ai nghĩ rằng: thân mình ấy vẫn còn tồn-tại ở dưới thế này, nữa.
Quả
thật, người đọc lại sẽ nhận-xét từ truyện do ông Phaolô kể về sự quang-lâm của Đức
Chúa đã trỗi-dậy đến từ trời, rồi còn trở về lại như “hoa quả đầu mùa cho những
ai đã ngã gục trong “giấc ngủ vùi” mà thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 23 từng
nói đến:
“Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức
Kitô, rồi đến các kẻ thuộc về Ngài, vào buổi quang-lâm của Ngài.”
Đó
là: chuỗi ngày dài nổi đình nổi đám gồm với nhiều người từng đi theo Ngài.
Nói
đơn-giản, thì: với ông Phaolô và các tín-hữu Đạo Chúa, việc Đức Giêsu phục-sinh/trỗi-dậy
biểu-tỏ khả-năng tái-tạo cuộc sống vẫn dành cho những kẻ lỗi phạm theo cách
linh-đạo đến chỗ chết, cả những người nhờ kết-hiệp cái chết của Đức Kitô được
thừa-hưởng phần sẻ-san trong sự sống mới của mình.
Nhờ
cách-thức giản-đơn biểu-tỏ sự cao cả do ông Phaolô diễn-giải, việc kết-hợp bí-nhiệm
này, mới trở thành thực-tại cho mỗi kẻ tin. Nghi-thức này, khi xưa gọi là phép
tẩy rửa do ông Phaolô quan-niệm. Nói cách khác, ông Phaolô đã dọi lại lề-lối/tập-tục
đầy huyền-bí của Đông Phương tràn lan trong thế-giới La-Hy, vào dạo ấy.
Ảnh-hình
đầu về tẩy rửa, từ khởi-thủy chỉ là nghi-thức dầm mình của Do-thái-giáo, vốn hướng
về việc tẩy-xoá mọi uế-tạp cả thể xác lẫn tinh-thần. Khi xưa, nghi-thức này được
coi như nghi-lễ tẩy-uế định-vị cho những người theo Do-thái-giáo, như: thượng tế,
trợ-tế Lê-vít và chúng dân Do-thái trước khi cho họ được phép bước vào đền
Giêrusalem để tham-gia phụng-thờ, ở đền thánh.
Trên
thực-tế, thì nghi-lễ tắm-rửa kết-hợp với việc vệ-sinh biểu-trưng nơi việc tẩy-rửa
mọi thứ uế-tạp nhắm vào mọi thứ. Luật-lệ áp-đặt việc này, là nhằm dứt-đoạn một
số tật/bệnh lây/lan như xáo-trộn về sinh-dục hoặc về da mà tiếng chuyên môn gọi
là “phung-cùi/ghẻ-lở” và/hoặc “xuất-huyết”. Nghi-lễ tắm-rửa cũng tác-tạo
tình-trạng thanh-khiết sau khi tiếp-cận thi-thể người chết, hoặc sau lần giao-thoa/ăn
nằm thể-xác với cả hai giới, và/hoặc sau kỳ kinh và sinh-đẻ, ở phụ-nữ.
Một
số dạng-thức đặc-thù của tẩy/rửa nơi Do-thái-giáo thời cổ/xưa, chỉ thực-hiện
duy-nhất một lần, mà thôi. Đó, là sám-hối/tẩy rửa do ông Gioan Tẩy-Giả rao-truyền
mang nghĩa một xoá tẩy mọi uế-tạp của lỗi/tội, rồi định-vị mà về với cuộc sống
lành-thánh, ngõ hầu đi vào Vương Quốc Nước Trời.
Dường
như phái Essênê Qumran khi xưa, cũng đã hiện-thực nghi-thức tắm/rửa đặc-thù cốt
cải-tân linh-đạo trong suốt lễ-nghi cử-hành lập giao-ước đi vào bè/nhóm tách
riêng như cảo bản 1QS 5:13-14 từng ghi lại. Do-thái-giáo của thày tư-tế dựa vào
tập-tục có từ thế-kỷ thứ nhất trước Công-nguyên, lại cũng bao gộp dân ngoại gồm
cả nam lẫn nữ bất cứ ai muốn quay về với Do-thái-giáo hầu thực-hiện cuộc tẩy rửa
cải đạo cộng với tục cắt bì nếu là nam.
Tuy
thế, dù có tháp-nhập lại hoặc là trường-hợp có một không hai, việc tẩy rửa theo
kiểu Do-thái-giáo luôn duy-trì tính biểu-tượng của nó lúc đầu gồm có việc tắm/táp
hoặc tẩy sạch bằng nước.
Nói
chung thì, ông Phaolô không thiết-tha gì đến nghi-thức tẩy/rửa và nếu ông có sử-dụng
ý-niệm uế-tạp thế nào đi nữa, thì ông luôn hàm-ngụ ý-nghĩa luân-lý đạo-đức
thôi. Tẩy rửa, đối với ông, được điểm thêm một ý-nghĩa ẩn-dụ đầy nghĩa bóng chứ
không can-dự gì đến việc rửa sạch bằng nước, chút nào hết. Việc tẩy/rửa ở trong
hồ, trước hết và trên hết, tượng-trưng cho mộ-phần từ nơi đó Đức Giêsu đã trỗi
dậy vào ngày Phục Sinh quang vinh.
Thế
nên, khi có người thực-thi nghi-thức khai-tâm linh-đạo đi vào với huyền-nhiệm Đạo
Chúa, họ vẫn dầm mình trong đó, có nghĩa: chôn sâu vào giòng tẩy rửa, tức: họ mặc
lấy sự chết của Đức Kitô khi đến với Ngài mà đi vào chốn mộ-phần. Và, khi người
được tẩy/rửa trỗi-dậy, là: họ lại một lần nữa thực-thi giao-tiếp với Đức Kitô
phục-sinh theo cách bí-nhiệm. Từ đó, họ thuộc về Ngài. Và, bi-kịch này được ông
Phaolô diễn-đạt bằng một số ngôn-từ đau-buốt như ông có ghi chú trong thư Rôma
đoạn 6 câu 3-4, bảo rằng:
“Anh chị em không biết sao: hết thảy chúng ta đã được
thanh-tẩy trong Đức Kitô Giêsu, thì chính trong sự chết của Ngài mà ta đã được
thanh-tẩy? Vậy, nhờ thanh-tẩy, ta đã được mai-táng làm một với Ngài trong sự chết,
ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh-quang của Cha, đã được sống lại từ cõi chết,
thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới.”
Thành
thử, bằng việc diễn-giải lại ảnh-hình cội-nguồn/ban đầu về nghi-thức tẩy/rửa,
ông Phaolô đã đem đến cho tín-hữu Đạo Chúa một phương-án khiến cho công việc của
họ làm có được đặc-trưng/đức tính mang cả hai ý-nghĩa vừa là thập-giá vừa là phục-sinh/trỗi
dậy. Không cần nói nhiều, khi dẫn-nhập việc tẩy/rửa cho con trẻ theo cách chung
chung, thì hành-xử xối/rửa nước được thay cho việc dầm mình vào cung-cách rửa sạch
với Bí-tích này, vốn dĩ khi xưa chỉ dành riêng cho người lớn vào lúc khai-tâm
linh-đạo tổ-chức vào lễ Phục-Sinh. Tuy nhiên, làm thế thì giải-pháp tượng-trưng
theo khuynh-hướng của nhóm đồ-đệ ông Phaolô tự-khắc bị huỷ-bỏ như thể lỗi thời.
Thêm
vào đó, là hệ-quả tức thời của việc kết-hiệp đầy bí-nhiệm này với Đức Chúa Phục
Sinh mà ông Phaolô mường-tượng thay cho sự/việc sống phục-vụ Thiên-Chúa “ngang
qua Đức Giêsu Kitô” cho việc hiện-hữu đầy lội/tội, là việc thanh-tẩy tượng-trưng
cho việc trổi-dậy, lại cũng tượng-trưng cho việc cấp vé tham-gia vào sự chiến-thắng
cuối cùng của Đức Kitô và các dự-tòng của Ngài vào với Phục-sinh cuối, rất
đích-thực.
Như
ta biết, triển-vọng về sự chiến-thắng chung-cuộc của Đức Kitô và các dự-tòng của
Ngài, theo thần-học của ông Phaolô, lại không là biến-cố thuộc tương-lai xa vời,
nhưng lại trông đợi sẽ xảy ra ngay vào thời các tông-đồ và thế hệ của Ngài, nữa.
Quả thật, ông Phaolô từng lặp đi lặp lại nhiều lần về kịch-bản của nghi-thức cuối
cùng này.
Mỗi
một chi-tiết đều được ông am-tường, rất rõ rệt. Đức Kitô được các thiên-thần hộ-thủ
của Ngài vây quanh, khi ấy sẽ từ trời mây cao chót vót mà đến. Và vị tổng-lãnh thiên-thần,
chắc chắn là thần-sứ Mikae –là vị cầm đầu đăng cai ở thiên-quốc sẽ không ở mỗi
nơi đây, nhưng còn ở các thư cũng như Cảo-bản Biển Chết – sẽ thổi kèn đồng kêu
gọi những người được thanh-tẩy đã chết sẽ vực trở lại với sự sống, cũng rất chóng.
Có
lẽ, còn có cả ông Phaolô và các tín-hữu Đạo Chúa đang sống sót được tham-gia vào
đội ngũ ấy, xác phàm và máu mủ của họ sẽ chuyển-đổi thành thân mình linh-thiêng
và họ cũng sẽ được nâng-nhấc đến với Đức Chúa đang ngự trị trên mây trời vần vũ,
như thư thứ nhất Côrintô đoạn 15 câu 51-52 từng bảo:
“Này đây mầu-nhiệm, tôi xin nói với anh chị em: ta sẽ
không chết hết thảy, nhưng hết thảy ta sẽ được biến-đổi, bất thần, trong nháy mắt,
vào tiếng loa cuối cùng - vì loa sẽ thổi
– và người chết sẽ trỗ-dậy bất hoại, và ta sẽ biến-đổi.”
Cuối
cùng thì, Đức Chúa Phục sinh chiến-thắng sẽ đạt đến mọi thứ, cả cái chết, như
thư thứ nhất Côrintôi đoạn 15 câu 28 lại cũng viết:
“Vì khi mọi sự đã phục quyền Ngài, thì bấy giờ Con cũng sẽ
phục quyền Đấng đã bắt mọi sự phục quyền mình, ngõ hầu Thiên-Chúa là tất cả
trong mọi sự.”
Và,
cứ thế, ông Phaolô lại viết nhiều hơn, như thư thứ nhất Thessalônikê đoạn 4 câu
16-17, từng nói:
“Bởi, khi lệnh vang ra, theo tiếng tổng lãnh Thiên thần
và loa của Thiên-Chúa, thì tự trời chính Chúa sẽ ngự xuống và những kẻ chết
trong Đức Kitô sẽ sống lại trước, rồi chúng ta, những kẻ còn sót lại, chúng ta
sẽ được quyện lên các tầng mây làm một với họ, đi đón Chúa trên làn khí. Và như
vậy, chúng ta sẽ được ở với CHúa luôn luôn.”
Người
được tẩy/rửa trỗi dậy từ cõi chết sẽ đi thẳng đến sự chiến-thắng cánh-chung của
Đức Kitô và của tín-hữu Đạo Chúa. Thật sự thì, cả hai kết hợp thành một, nhờ có
ngòi bút lông của bậc thày Phaolô đưa đẩy, nằm trong cùng một bích-hoạ
hoành-tráng lên mây trời lủng-lẳng đầy kịch-tính.
Sau
những giờ phút rất ngưỡng-mộ đứng trước kiệt-tác của ông Phaolô, mọi người mới
thấy được sự phiền-toái thắc-mắc trườn bò vào tâm-não của mọi người. Bởi, bức
tranh hoành-tráng ấy không hoàn-tất.
Sau
buổi hội-ngộ này với Đức Chúa trên làn khí, thì việc gì sẽ xảy đến với dân con
tín-hữu đây? Phải chăng, các vị ấy lại sẽ tiếp-tục hành trình của mình trên mây
làn vần vũ hướng về bẩy tầng trời hoặc họ sẽ lại rơi xuống mặt đất như công dân
thường-tình của Giêrusalem từ trên cao sau khi đã hạ cánh thay thế cho Sion mặt
đất?
Và
điều gì lại sẽ xuất-hiện với những người không ở “trong Đức Kitô”? Ông Phaolô
đã không thở ra câu nào về chuyện như thế. Phải chăng những người này biến mất
dạng hoặc trở thành tự huỷ?
Ảnh-hình
do ông Phaolô vẽ vào cuối thư Thessalônikê lại không gồm tóm cảnh phán xét nào
hết. Chuyện ở đây, không phải là không thường xuyên xảy đến ở các thư do chính
mình viết, ông Phaolô lại không đi đến hệ-quả nào hết. Như, ở thư Rôma đoạn 2
câu 16, ông lại tuyên bố đôi điều mà không nói làm sao và khi nào, như từng bảo:
“Đó là điều sẽ lộ ra trong ngày Thiên-Chúa đoán-xét những
điều khuất-ẩn nơi loài người –chiếu theo Tin Mừng tôi rao giảng – nhờ Đức Kitô
Giêsu.”
Tuy
nhiên, ở thư thứ hai Côrintô đoạn 5 câu 10 ông lại nói đến chuyện xét đoán của
Chúa, như:
“Vì chưng, ta hết thảy sẽ phải xuất đầu lộ diệntrước toà
Đức Kitô, để mỗi người lĩnh lấy thành-quả đời mình trong thân xác, xứng với các
việc đã làm, lành hoặc dữ.”
Rõ
hơn nữa, ở thư thứ 2 Thessalônikê, ông nói huỵch-toẹt ra ngoài việc Đức Giêsu
xuất-hiện từ trời cao có các thần-sứ quyền-uy nổi lửa đánh trả-đũa những ai
không tuân-thủ Tin Mừng của Giêsu Đức CHúa, như lời thư thứ 2 Thessalônikê đoạn
1 câu 7-9, từng nói rõ:
“Quả là công-minh nơi Thiên-Chúa, là: những kẻ gây gian-truân
cho anh chị em lại có gian-truân báo đền, và cho anh chị em, những kẻ phải
gian-truân, được phúc thanh-nhàn với chúng tôi vào thời mạc-khải từ trời của Đức
Giêsu với các thiên-thần của quyền-năng Ngài, dùng ngọn lửa hoả-hào đoán-phạt
những kẻ không biết Thiên-Chúa, và không không vang-phục Tin Mừng của Chúa
chúng ta, Đức Giêsu. Những kẻ ấy sẽ bị án hư đi đời đời, xa mặt Chúa và xa cách
vinh-quang quyền-lực của Ngài.”
Mặt
khác, nếu theo-dõi câu nói của ông ở nơi khác, người đọc lại sẽ nghĩ rằng ông
Phaolô hy-vọng vào một chuyển-đổi vũ-trụ vào trước thời-gian Chúa đến lại. Hệt
như thư thứ nhất Côrintô đoạn 4 câu 5 lại quả-quyết:
“Nhục thật, để tôi phải nói với anh chị em. Thế ra, trong
anh chị em không có được một người khôn-ngoan nào để có thể phân-xử giữa anh chị
em mình ư?”
Thật
ra, xem chừng ông Phaolô đã không thay đổi tâm não của ông và tầm nhìn của ông lại
cứ giao-động giữa đức-tính từ-bi nhân-hậu của Thiên-Chúa, một trỗi-dậy chỉ dành
riêng cho các kẻ tin mà thôi, và sự chia-rẽ vốn có lâu nay giữa chiên và dê đã
rõ ràng với chuyện thưởng/phạt riêng rẽ, thích-hợp, là như thế.
(còn tiếp)
Gs Geza Vermes biên-soạn
Mai
Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment