Sáng nay, trong cuộc trò chuyện với phóng viên một tờ báo Công Giáo nước
ngoài, người phóng viên đặt muốn trao đổi với tôi về lòng sùng kính Mẹ Maria
của người tín hữu Việt Nam, câu hỏi được đặt ra là: “Văn hóa Việt Nam có vai
trò nào trong lòng sùng kính Đức Mẹ ?” Một câu hỏi thú vị và gợi mở nhiều vấn
đề.
Ai trong
chúng ta cũng biết, xã hội Việt Nam nặng về tình mẫu tử, vết tích chế độ mẫu hệ
vẫn còn in đậm nét trong nhiều sinh hoạt của xã hội, ngay trong ngôn ngữ, những
gì là cao quý, những gì là thương mến, ngôn ngữ Việt Nam đều dành cho người làm
mẹ, như: Mẹ đất nước, Mẹ Việt Nam, Mẹ tổ quốc, quê Mẹ, tiếng Mẹ đẻ… Ngay trong
Giáo Hội thì vẫn đề cao chữ mẹ: Nhà Mẹ, Tỉnh Dòng Mẹ, Mẹ Nhà Dòng, Nhà Thờ
Chính Tòa của một Giáo Phận được coi là Nhà Thờ Mẹ của các Nhà Thờ khác… Thật
ra một số ngôn ngữ trên thế giới cũng có, nhưng ngôn ngữ Việt vẫn có những nét
hết sức tình cảm sâu đậm và thân thương dành cho Mẹ.
Trong Giáo Hội Việt Nam, người tín hữu sùng kính Đức Mẹ một cách đặc
biệt, Nhà Thờ nào cũng dành một vị trí trang trọng xây dựng đài Đức Mẹ hoặc
hang đá Đức Mẹ, lòng Nhà Thờ nào cũng có “bàn thờ kính Đức Mẹ”, ngay trong các
gia đình thì bàn thờ nhiều khi vẫn chỉ đặt có mỗi tượng hoặc ảnh Đức Mẹ ! Giáo
Phận nào cũng có ít là một Trung Tâm Hành Hương kính Đức Mẹ, hầu hết các trung
tâm này đều hình thành từ phía những anh chị em giáo dân sùng mộ Đức Mẹ trước
khi được giáo quyền chuẩn nhận và đứng ra chính thức tổ chức và phát triển. Các
cuộc hành hương hiện tại trong nước đều là các cuộc hành hương đến với các
Trung Tâm sùng kính Đức Maria, trong khi các cuộc hành hương đến với các Trung
Tâm dâng kính Chúa Giêsu hoặc các Trung Tâm có Thánh Tích Tử Đạo xem ra còn rất
khiêm tốn.
Trung Tâm
Hành Hương kính Đức Mẹ hiện tại trên quê hương Việt Nam chúng ta nhiều như vậy,
các hoạt động bày tỏ lòng sùng kính Mẹ Maria diễn ra sầm uất và đều đặn hằng
năm và khắp nơi, thế nhưng những trung tâm đó và những sinh hoạt ấy lại vẫn
chịu ảnh hưởng rất đậm từ các hình tượng và ngôn ngữ truyền thống của văn hóa
Phương Tây.
Tháng hoa
( tháng 5 ) rất phổ biến trong sinh hoạt tôn giáo Việt Nam, nhưng những đoạn ca
vãn mang âm nhạc và tiết tấu dân ca Bắc Bộ, nơi sản sinh ra loại hình dâng hoa
này lại gần như mai một. Hình thức dâng hoa kính Đức Mẹ vẫn còn, nhưng thay vào
đó là những bài tân nhạc quen thuộc của Nhà Thờ. Hầu hết các bạn trẻ không còn
ngâm nga các bài "ca vãn" của các "con hoa" thuở xưa nữa,
các nghệ nhân thì già yếu và mất dần, cô đơn và lặng lẽ vài nhà nghiên cứu ghi
lại các bài ca vãn rồi cất vào tủ sâu ít ai ngó tới. Thôi thì không còn thích
hợp nữa thì phải thay đổi, nhưng thay thế làm sao để văn hóa dân tộc còn tồn
tại và phát triển, để người Việt còn tìm gặp được “ngôn ngữ mẹ đẻ" của
mình trong việc thờ phượng.
Khi phát hiện ra tượng Đức Mẹ bị gãy tay ở Măng Đen, có hai khuynh hướng
ngược hẳn nhau tranh luận về bức tượng này, nhóm muốn giữ nguyên hình ảnh Đức
Mẹ bị gãy tay để tôn kính, họ nói họ tìm được chính họ trong hình tượng khổ đau
này. Nhóm đối nghịch cho rằng cần phải sửa chữa và tôn tạo, họ lý luận mẹ tôi
bị tai nạn gãy tay, tôi phải đưa vào bệnh viện băng bó, nếu mất tay thì phải
làm tay giả chứ không thể để cụt mãi như vậy. Một cuộc thăm dò ngấm ngầm được
thực hiện, ban tổ chức in hai loại lịch vào đầu năm 2013, hai loại lịch in hai
hình Đức Mẹ theo hai khuynh hướng nêu trên, kết quả loại lịch hình Đức Mẹ gãy
tay bán hết, loại lịch hình Đức Mẹ được lắp tay và sửa chữa sơn phết tội đẹp
lại bị ế hoàn toàn.
Tìm thấy chính mình trong hình ảnh của Mẹ là một nhu cầu và một khuynh
hướng tất yếu, con người cảm thấy trọn vẹn khi được thờ phượng bằng chính “ngôn
ngữ” của mình. Ngôn ngữ hình thể, âm thanh, không gian, màu sắc… Mấy năm gần
đây, người ta đã xây dựng một số nhà sàn trên Tây Nguyên bằng bêtông, nhưng người
dân tộc lại không thích và không muốn bước vào những ngôi nhà này, họ bảo không
phải nhà của họ, họ không tìm thấy không gian của họ được tái tạo lại bằng vật
liệu xa lạ.
Cần nhớ là
kiến trúc chính là nghệ thuật tái tạo không gian sống. Vấn đề này được đặt ra
một cách nghiêm túc cho các Trung Tâm Hành Hương kính Đức Mẹ tại Việt Nam, nếu
không chúng ta chỉ lập lại một cách vụng về các Trung Tâm kính Đức Mẹ nào khác
trên thế giới, và người Việt không có cơ hội được diễn tả niềm tin của mình
bằng chính ngôn ngữ của mình.
Trung Tâm
Hành Hương La Vang tại Quảng Trị là Trung Tâm của cả nước, năm 1961 ( Huế ngày
13.4.1961 ) và 1980 ( Hà Nội ngày 1.5.1980 ), hai lần hai thời điểm Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam xác quyết như vậy. Làm sao để Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La
Vang thực sự là Trung Tâm Hành Hương của người Việt. Đến đó, người Việt cảm
nhận như vào nhà mình, chan hòa giữa không gian Việt, ngôn ngữ Việt, màu sắc
Việt, tương quan Việt, tâm linh Việt, hồn Việt...
Bài toán khó nhưng không thể không có lời giải đáp. Cần một sự chung
sức, tôn trọng, thoát khỏi thành kiến, thoát khỏi thói quen nếp nghĩ, cần phải
đột phá, chấp nhận thử thách, chấp nhận sự tìm kiếm.
Ngày 15
tháng 8 năm 2014, ngày Đại Hội lần thứ 30, con cái của Mẹ đổ về từ muôn hướng,
cùng với lời kinh là lời nguyện cầu cho công việc được tốt đẹp theo thánh ý
Chúa. Công trình của Mẹ, Mẹ sẽ giữ gìn và hướng dẫn theo ý Mẹ vậy.
Lm. VĨNH SANG, DCCT,
18.7.2014
No comments:
Post a Comment