Tuesday 8 July 2014

Lm Kevin O'Shea CSsR: Ơn Cứu Chuộc và lời cầu Chúa xót thương



CỨU CHUỘC NHỜ TÌNH THƯƠNG YÊU CÔNG CHÍNH
Ơn Cứu Chuộc và lời cầu Chúa xót thương
Tham dự Tiệc Thánh, ta thường dâng lên Chúa lời kinh mai như sau:
“Lạy Chúa, xin dủ tình thương xót chúng con,
Lạy Đức Kitô, xin dủ tình thương xót chúng con”.
Với từ điển Oxford khổ nhỏ, lòng xót thương đã được định nghĩa, như sau:
 “Xót thương là: lòng trắc ẩn độ lượng vẫn phú ban cho người không quyền lực, đặc biệt là những người phạm lỗi, hoặc ai đó, tuy không đòi hỏi nhưng vẫn được đối xử tử tế tốt lành, cả vào trường hợp có sự cung kính rất trông mong.”
 Vì trông mong, nên người người vẫn tự đặt mình luôn sẵn sàng hứng nhận lòng từ bi, trắc ẩn từ Đức Chúa với lòng tin tưởng vượt bực, như kẻ phạm lỗi trước phiên toà xét xử về sự công bằng nơi nhân loại.
Từ vựng “Mercy” bên tiếng Anh, xem ra như còn đề nghị nhiều điều vượt cả sự công minh chính trực, vượt lằn ranh giới hạn tình xót thương bình thường, nữa. Nơi Phụng Vụ, ta còn nghe biết lời cầu Chúa xót thương, như ở câu: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con !” Thương xót đây, mang ý nghĩa một đợi trông rất cẩn trọng. Cẩn trọng để Chúa xót thương những người cầu khấn được miễn chuẩn, không đòi phải sống tốt đạo đẹp đời, mới được thế.
Ở Sách Thánh, từ vựng “xót thương”, cũng ít thấy. Đúng hơn, ta chỉ thấy sự tin tưởng trọn vẹn vào Đức Chúa là Đấng thương yêu con người vẫn rất mực. Và Ngài sẽ còn yêu thương ta mãi đến muôn thuở, muôn đời. Với Thánh Vịnh 25, người cầu khấn vẫn đưa vào lời kinh đêm, những câu nói thân thương, như sau:
 “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu
 Ngài từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời.” ( Tv 25, 6 )
Xem thế thì, đây là chuyện Chúa vẫn gần cận, thân thương với con người. Ngài vẫn tỏ lòng từ ái thủy chung với họ từ ngàn đời; và lòng nhân ái ấy sẽ còn kéo dài mãi đến thiên thu. Nơi lời kinh đêm hôm trước, người người lại vẫn dâng lên Chúa lời cầu khấn thân thương, như sau:
                    “Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
 nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” ( Tv 25, 7 ).
Lầm lỡ, trót dại thời son trẻ, thật ra chỉ là đốm sáng hiện trên màn hình của thời bé bỏng đã qua trong dĩ vãng, không thể nào khiến Chúa bận tâm chia trí, hoặc lo ra được. Bởi thế nên, lời kinh hôm nào lại vẫn nhắc:
 “Xin Ngài đừng nhớ đến những lỗi/tội con trót phạm,
 nhưng hãy lấy tình thương yêu mà nhớ đến con cùng.”
"Tình thương đây", tiếng Do Thái gọi là “hesed”, tức lòng từ ái, mẫn cảm kéo dài đến thiên thu, vạn đại. Tiếng Aram xưa, gọi đó là “rahamim”. Còn tiếng Latinh, lại dịch là lòng mẫn cảm đầy thương xót. Sách Thánh bản Vulgata có chữ “Douai” ý nói lòng trắc ẩn, độ lượng. Tiếng Do Thái sử dụng từ vựng này ở số nhiều, là do từ thuở ban sơ thời nguyên thủy đã có từ vựng mang nhiều nghĩa, như: tình dịu hiền êm ả, sự tử tế tốt lành, lòng mến thương độ lượng, nhiều trắc ẩn. Thế nên, từ vựng “Mercy” ở tiếng Anh không bao hàm nhiều nghĩa đến độ thế.
Một số dịch giả Kinh Thánh bản 70, khi xưa cũng tìm cách dịch chữ “oiktimoi” ở tiếng Hy Lạp cho đúng văn bản gốc, nhưng bản dịch chính lại ghi là “lòng dạ đầy trắc ẩn”. Thánh Vịnh lại có câu: “Hãy đem nó vào lòng dạ xót thương đầy trắc ẩn”.
Tác giả Tyndale gọi đó là “lòng trắc ẩn dịu êm”. Còn Thánh Giacôbê khi trước, lại nói đến đặc tính cảm thông từ Đức Chúa. Nên hỏi rằng, thật ra thì lời kinh hôm dâng Chúa ở Tiệc Thánh như câu: Kyrie Eleison, Christe Eleison thật ra mang ý nghĩa gì ?
Tình yêu qua kinh nghiệm chú giải của Lm. Christian Duquoc
image031Những điều nhắc đến ở trên có nói về tình thương yêu cách chung chung, hoặc có bàn về loại hình mến mộ Chúa vẫn tỏ lộ cho con người chứ ? Phải chăng, ta có nói cho nhiều cũng diễn tả không đủ tình Chúa thương yêu con người và sự công minh Ngài vẫn có, đúng thật là một ư ? Nhưng vấn đề là hỏi rằng: làm sao lại như thế ?
Lm. Christian Duquoc cũng từng đặt câu hỏi: Đức Giêsu là Ai ? Ngài thương yêu con người đến  độ nào ?
Đức Giêsu xưa vẫn phán: thời buổi đã mãn. Thế nên ngay từ đầu, Ngài cũng không đặt nặng những gì tuỳ thuộc vào “thời buổi” theo hướng cơm áo gạo tiền, hoặc theo nghĩa chính trị và quyền bính nơi đạo giáo như trình thuật cơn cám dỗ đầu lúc Chúa khởi sự cuộc sống công khai đời rao giảng. Buổi đầu đời, Ngài không nhấn mạnh đến những gì khả dĩ khiến ta làm lại cuộc sống; hoặc: cải thiện lịch sử cách triệt để, nào hết. Ngài cũng chẳng nối kết với bất cứ đường lối diễn giải lịch sử nào hết. Giả như ta nhận ra những điều như thế về Đức Giêsu, hẳn ta cũng không còn cách nào sử dụng viễn ảnh lịch sử như đường lối chính thức để hiểu rõ Ngài. Ta cũng chẳng tài nào hiểu được ý nghĩa của sự việc giải phóng hoặc chính đạo giáo nữa. Điều này có ý bảo: Đức Giêsu đã tách rời khỏi mọi thứ đạo giáo, hoặc theo cung cách lịch sử từng nhận thức và thực hiện, cho đến nay.
Các phòng trào này nọ của lịch sử hoặc đạo giáo vẫn chỉ tương đối thôi. Tương đối cả về thành quả lẫn thất bại. Thiên Chúa là Đấng siêu việt, Ngài khác hẳn mọi thứ như thế. Do khác biệt, nên Ngài có khả năng ở với nhân loại cả vào lúc con người thành công lẫn thất bại. Mà Ngài cũng chẳng cần dựa vào thành quả hoặc thất bại để đánh giá con người. Ngài ở với con người, cả trong bản chất rất thường tình của họ, chẳng cần họ thành công hay thất bại.
Đức Giêsu lâu nay sống thực bằng nhận thức rằng: tất cả những gì diễn tiến trong lịch sử và cuộc sống con người, và Ngài coi đó như những “mảnh vụn nhỏ”, tức một thứ gì đó không hoàn tất. Ta nói thế vì con người không biết đó là thứ gì, bởi ta không thấy và cũng chẳng nắm bắt được phần tổng thể của những thứ như thế. Trong khi đó, Chúa lại trực tiếp có cảm quan về một Thiên Chúa rất khác biệt. Ngài có trực cảm là ta phải làm sao để các mảnh vụn vẫn cứ là mảnh vụn. Ta không có khả năng tạo quan niệm hoặc hoàn tất “tổng thể” ấy hầu để nó ăn khớp với những mảnh vụn như thế; và làm như thế mới tạo được ý nghĩa cho mọi sự. Ta phải sống sao không cần đến những đó. Và ta còn phải từ bỏ lối sống kết tụ không tưởng đầy ngẫu hứng giống như thế.
Đức Giêsu, thật ra, Ngài không muốn áp đặt bất cứ hình thức xã hội hoặc mẫu mực nào về chính trị, đạo giáo hoặc loại hình biến đổi thiên nhiên, hết. Bởi làm như thế tức là ta đã chống lại nhận thức về “mảnh vụn”.
Đức Giêsu từng học hỏi kinh nghiệm sống tình yêu bí nhiệm ở trong và về các “mảnh vụn” thấp hèn và thô thiển, vốn dĩ không thể trở thành tổng thể hoặc thành phần tổng thể ấy. Đó chính là “tình yêu” đơn thuần, bởi chỉ có tình yêu mới tôn trọng bản chất đích thực của “mảnh vụn nhỏ”. Đây, rõ ràng là sự độ lượng nơi Tình Chúa thương yêu ta.
Hồng phúc an lạc, diễn tả uy lực biến đổi đang gần cận bên ta –nơi thế giới gồm những “mảnh vụn nhỏ” có sự độ lượng được kề cận Chúa vốn dĩ gắn liền vào sự thấp hèn và thô thiển. Lịch sử cần gần cận, chứ thật ra không là diễn giải, phát xuất từ điểm tới của những yếu kém này.
Chính các “nơi” này, đích thực là nơi dấy lên một sự sống vượt khỏi mọi khinh miệt và bao lực từ hệ thống quyền lực. Chính bằng việc tham gia vào sự thể như thế, nên các cộng đoàn tín hữu của Chúa Kitô có thể gia nhập Vương Quốc Nước Trời như Lời Ngài diễn tả ở Tin Mừng hoặc gia nhập vào công cuộc Tạo dựng mới, như thánh Phaolô từng xác quyết.
Là tín hữu Đức Kitô, không có nghĩa là sống thụ động, mà là khẳng định một cách chủ động niềm tin của mình rằng mỗi biến cố lịch sử đã trở thành thời điểm cho niềm hy vọng có sự hiện diện của Chúa ở trong và ở với những gì là thô thiển, thấp hèn. Theo nghĩa Chúa diễn tả, thì những gì cần được bênh vực/biện hộ không là lối ra từ thế giới có nền lịch sử và chính trị thực thụ, mà là sự gián đoạn khỏi tầm nhìn của chính nó.
Ơn Cứu Chuộc thành toàn không phải chỉ nhờ duy có sự Thương khó mà thôi – mà sự Thương khó của Đức Giêsu là thành phần phải có trong điều kiện thống khổ của nhân loại và ngang qua lịch sử cũng như tất cả những thứ đó có tác dụng cứu chuộc con người. Tác giả Duquoc rất thích cái tiêu đề do image032ông chọn khi viết về Ơn Cứu Chuộc, bởi nó đem lại cho toàn thể lịch sử cái gọi là “Bản Giao hưởng được diễn tả cách chầm chậm”.
Chú thích quan trọng:
Tôi vẫn nghĩ: ý niệm về những “mảnh vụn nhỏ” nói ở trên chợt đến từ triết học lãng mạn. Từ cội nguồn, ý niệm này được sử dụng theo nghĩa của “Ánh lửa thần thánh”, sau đó đã trải dài cách rộng rãi. Thoạt đầu, ý niệm này được bắt gặp từ tư tưởng đặc biệt của Kierkegaard, sau đó có Nietzsche và đến thời Simone Weil nó càng hiện rõ hơn chí ít với lập trường/quan điểm của Walter Benjamin, nữa. Tác giả Benjamin đây lại cũng nói rằng các “mảnh vụn” lại đã “bão hoà” và “rực sáng” là yếu tố đảm trách sự vô cùng vô tận; và niềm hy vọng thần thánh về một cứu chuộc không được “xác định cho rõ”. Ở đây, tôi thấy có sự kết nối tư tưởng với tác giả T.S. Eliot, với Joyce, Kafka, v.v...
Phần phụ thêm:
Năm 1999, Lm. Christian Duquoc cũng viết một cuốn sách khác có đề tựa: “Je crois en Eglise. Précarie institutionelle de Dieu, Paris, Cerf.
Ở đây nữa, tác giả vẫn nhấn mạnh lên một điều là: tất cả mọi cơ sở bất kể họ có tìm cách thực hiện mọi sự việc tích cực hay không đều ra điêu đứng/khổ sở về hoạt động khác thường của các thể chế, vì họ cố duy trì tính chính thống của riêng mình. Điều này được lối biện luận về chính kiến mà ta gọi là thần học, vẫn quan tâm chứ ? Tuy nhiên, sự việc tỏ cho ta thấy Thiên Chúa hiện diện ở thế giới là do Ngài tự quyết định như thế, và qua đó Ngài xoá bỏ chính mình Ngài nên như vậy. Thể chế Giáo Hội lại cứ tuyên bố: mình là chứng nhân của một Thiên Chúa như thế. Đúng ra chỉ có Lời Chúa rất khác biệt và không tinh giản được, mới là nguồn gốc và bảo chứng cho việc thực sự mở lòng mình ra để trở thành quà tặng của Thánh Thần Chúa, thôi. Chuyện đạo đức, nơi Đạo Chúa, không có gì là lạ lùng hết, nhưng không là trọng tâm cho các sự thể ra như thế.
Đức Bênêđitô 16 và tông thư "Thiên Chúa là Tình Yêu"
Lâu nay, nhiều người vẫn cố xác định xem ý nghĩa xác thực của ngôn từ khi định nghĩa Tình Thương Yêu, như từ vựng: đức Mến Thương, tình bằng hữu, ái tình, lòng bác ái, v.v… Thánh Kinh, thường tập trung vào lời kinh Shema ở sách luật Torah Do Thái trong đó ghi rõ giới lệnh đầu: “Người phải yêu thương Đức Chúa...” và ở thư thứ nhất chương 13, Thánh Phaolô gửi tín hữu thành Côrintô cũng như thư thứ nhất Thánh Gioan đều đề cập đến Tình Yêu, như thế.
Qua tông thư này, Đức Bênêđitô 16 bàn về sự khác biệt từ ngàn xưa giữa từ vựng Hy Lạp Eros ( Ái tình ) Agapè ( lòng mến mộ ). Eros, là thứ ái tình thấy rõ nơi tình yêu thương nam nữ đầy dục tính, cứ vươn cao vươn cao mãi để đạt toại nguyện cho bằng được. Trong khi đó, Agapè lại trầm xuống, quyết ra ngoài để đến với mọi người, cũng tựa như sự tách bạch giữa tình yêu đầy chiếm hữu với tình thương yêu mang tính dâng hiến. Từ vựng Eros, tập trung vào chính con người mình, còn Agapè lại là thứ tình mến mộ hướng về người khác, tức tha nhân. Agapè có đặc điểm không đòi điều kiện, là thứ tình thiêng liêng, vô kỷ.
Đức Bênêđitô 16 khẳng định rằng: bao lâu Eros Agapè còn kiếm tìm sự kết hợp đúng cách nơi thực thể là tình yêu đích thực, thì khi đó bản chất thực thụ của tình yêu mới thành hiện thực. Các tầm kích này đều thẩm nhập vào nhau. Tình yêu là thực tại đơn thuần gồm cả hai tầm kích như thế.
Agapè tiếng Hy Lạp, tương đương với từ vựng “Ahaba” tiếng Do Thái, cả hai đều có nghĩa như một khám phá thực thụ về phía bên kia, biết quan tâm chăm sóc lẫn nhau, vẫn kiếm tìm sự tốt lành của phía bên kia, tức của người mình yêu mến. Đó là nhận định không theo nghĩa cảm giác mãnh liệt, nhưng theo nghĩa là cứ xuất hành về phía trước mà cho đi và cho mãi để đến với người khác. Chúa thương yêu chúng ta, là Ngài thương và yêu cùng một kiểu, rất tương tự.
Ở đây ta lại nhớ về sự kiện khi xưa triết gia Aristotle không bao giờ nghĩ, đó là động lực ban đầu hoặc nguyên nhân tiên quyết dẫn đến việc yêu thương ta. Người Do Thái dư biết Chúa thương yêu ta bằng tình yêu rất “con người”. Ngài thương yêu ta rất mực, nên Tình Yêu của Ngài còn được gọi là Eros và tình yêu Ngài hoàn toàn mang tính chất rất Agapè nữa. Chúa có mối tình rất nồng nàn với con dân Ngài. Tình Eros của Chúa đối với con người hoàn toàn là Agapè. Chúa là người yêu vẫn có nơi Ngài trọn vẹn sự đam mê của tình yêu rất thực.
Với tôi, nói thế như thể bảo rằng: việc tháp nhập tình yêu đầy tính chất đam mê vẫn đi vào tình mến mộ Agapè của Thiên Chúa, ít ra là đã cho ta thấy sự công minh chính trực được tháp ghép vào tình yêu thương thần thánh của Thiên Chúa.
Lm. Kevin O’Shea, DCCT, bản lược dịch của Mai Tá ( còn tiếp )

No comments: