CỨU CHUỘC NHỜ TÌNH THƯƠNG YÊU
CÔNG CHÍNH
Ơn
Cứu Chuộc và lời cầu Chúa xót thương
Tham dự Tiệc Thánh, ta thường dâng lên Chúa lời kinh mai
như sau:
“Lạy Chúa,
xin dủ tình thương xót chúng con,
Lạy Đức Kitô, xin dủ tình thương xót chúng con”.
Với từ điển Oxford khổ nhỏ, lòng xót thương đã được định
nghĩa, như sau:
“Xót
thương là: lòng trắc ẩn độ lượng vẫn phú ban cho người không quyền lực, đặc
biệt là những người phạm lỗi, hoặc ai đó, tuy không đòi hỏi nhưng vẫn được đối xử
tử tế tốt lành, cả vào trường hợp có sự cung kính rất trông mong.”
Vì trông mong, nên người người vẫn tự đặt mình
luôn sẵn sàng hứng nhận lòng từ bi, trắc ẩn từ Đức Chúa với lòng tin tưởng vượt
bực, như kẻ phạm lỗi trước phiên toà xét xử về sự công bằng nơi nhân loại.
Từ vựng “Mercy” bên
tiếng Anh, xem ra như còn đề nghị nhiều điều vượt cả sự công minh chính trực,
vượt lằn ranh giới hạn tình xót thương bình thường, nữa. Nơi Phụng Vụ, ta còn
nghe biết lời cầu Chúa xót thương, như ở câu: “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con !” Thương xót đây,
mang ý nghĩa một đợi trông rất cẩn trọng. Cẩn trọng để Chúa xót thương những
người cầu khấn được miễn chuẩn, không đòi phải sống tốt đạo đẹp đời, mới được
thế.
Ở Sách Thánh, từ vựng “xót
thương”, cũng ít thấy. Đúng hơn, ta chỉ thấy sự tin tưởng trọn vẹn vào Đức Chúa
là Đấng thương yêu con người vẫn rất mực. Và Ngài sẽ còn yêu thương ta mãi đến
muôn thuở, muôn đời. Với Thánh Vịnh 25, người cầu khấn vẫn đưa vào lời kinh
đêm, những câu nói thân thương, như sau:
“Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu
Ngài
từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời.” ( Tv 25, 6 )
Xem thế thì, đây là chuyện Chúa vẫn gần cận, thân thương
với con người. Ngài vẫn tỏ lòng từ ái thủy chung với họ từ ngàn đời; và lòng
nhân ái ấy sẽ còn kéo dài mãi đến thiên thu. Nơi lời kinh đêm hôm trước, người
người lại vẫn dâng lên Chúa lời cầu khấn thân thương, như sau:
“Tuổi
xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng
xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” ( Tv 25, 7 ).
Lầm lỡ, trót dại thời son trẻ, thật ra chỉ là đốm sáng
hiện trên màn hình của thời bé bỏng đã qua trong dĩ vãng, không thể nào khiến
Chúa bận tâm chia trí, hoặc lo ra được. Bởi thế nên, lời kinh hôm nào lại vẫn
nhắc:
“Xin Ngài đừng nhớ đến những lỗi/tội con
trót phạm,
nhưng
hãy lấy tình thương yêu mà nhớ đến con cùng.”
"Tình
thương đây", tiếng Do Thái gọi là “hesed”, tức lòng từ ái, mẫn cảm kéo dài
đến thiên thu, vạn đại. Tiếng Aram xưa, gọi đó là “rahamim”. Còn tiếng Latinh, lại dịch là lòng mẫn cảm đầy thương xót.
Sách Thánh bản Vulgata có chữ “Douai” ý
nói lòng trắc ẩn, độ lượng. Tiếng Do Thái sử dụng từ vựng này ở số nhiều, là do
từ thuở ban sơ thời nguyên thủy đã có từ vựng mang nhiều nghĩa, như: tình dịu
hiền êm ả, sự tử tế tốt lành, lòng mến thương độ lượng, nhiều trắc ẩn. Thế nên,
từ vựng “Mercy” ở tiếng Anh không bao
hàm nhiều nghĩa đến độ thế.
Một số dịch giả Kinh Thánh bản 70, khi xưa cũng tìm cách
dịch chữ “oiktimoi” ở tiếng Hy Lạp
cho đúng văn bản gốc, nhưng bản dịch chính lại ghi là “lòng dạ đầy trắc ẩn”. Thánh Vịnh lại có câu: “Hãy đem nó vào lòng dạ xót thương đầy trắc ẩn”.
Tác giả Tyndale gọi đó là “lòng trắc ẩn dịu êm”. Còn Thánh
Giacôbê khi trước, lại nói đến đặc tính cảm thông từ Đức Chúa. Nên hỏi rằng,
thật ra thì lời kinh hôm dâng Chúa ở Tiệc Thánh như câu: Kyrie Eleison, Christe Eleison thật ra mang ý nghĩa gì ?
Tình
yêu qua kinh nghiệm chú giải của Lm. Christian Duquoc
Những điều
nhắc đến ở trên có nói về tình thương yêu cách chung chung, hoặc có bàn về loại
hình mến mộ Chúa vẫn tỏ lộ cho con người chứ ? Phải chăng, ta có nói cho nhiều
cũng diễn tả không đủ tình Chúa thương yêu con người và sự công minh Ngài vẫn
có, đúng thật là một ư ? Nhưng vấn đề là hỏi rằng: làm sao lại như thế ?
Lm. Christian Duquoc cũng từng đặt
câu hỏi: Đức Giêsu là Ai ? Ngài thương yêu con người đến độ nào ?
Đức Giêsu xưa vẫn phán: thời buổi đã
mãn. Thế nên ngay từ đầu, Ngài cũng không đặt nặng những gì tuỳ thuộc vào “thời
buổi” theo hướng cơm áo gạo tiền, hoặc theo nghĩa chính trị và quyền bính nơi
đạo giáo như trình thuật cơn cám dỗ đầu lúc Chúa khởi sự cuộc sống công khai
đời rao giảng. Buổi đầu đời, Ngài không nhấn mạnh đến những gì khả dĩ khiến ta
làm lại cuộc sống; hoặc: cải thiện lịch sử cách triệt để, nào hết. Ngài cũng
chẳng nối kết với bất cứ đường lối diễn giải lịch sử nào hết. Giả như ta nhận
ra những điều như thế về Đức Giêsu, hẳn ta cũng không còn cách nào sử dụng viễn
ảnh lịch sử như đường lối chính thức để hiểu rõ Ngài. Ta cũng chẳng tài nào
hiểu được ý nghĩa của sự việc giải phóng hoặc chính đạo giáo nữa. Điều này có ý
bảo: Đức Giêsu đã tách rời khỏi mọi thứ đạo giáo, hoặc theo cung cách lịch sử
từng nhận thức và thực hiện, cho đến nay.
Các phòng trào này nọ của lịch sử hoặc đạo giáo vẫn chỉ
tương đối thôi. Tương đối cả về thành quả lẫn thất bại. Thiên Chúa là Đấng siêu
việt, Ngài khác hẳn mọi thứ như thế. Do khác biệt, nên Ngài có khả năng ở với
nhân loại cả vào lúc con người thành công lẫn thất bại. Mà Ngài cũng chẳng cần
dựa vào thành quả hoặc thất bại để đánh giá con người. Ngài ở với con người, cả
trong bản chất rất thường tình của họ, chẳng cần họ thành công hay thất bại.
Đức Giêsu lâu nay sống thực bằng nhận thức rằng: tất cả
những gì diễn tiến trong lịch sử và cuộc sống con người, và Ngài coi đó như
những “mảnh vụn nhỏ”, tức một thứ gì đó không hoàn tất. Ta nói thế vì con người
không biết đó là thứ gì, bởi ta không thấy và cũng chẳng nắm bắt được phần tổng
thể của những thứ như thế. Trong khi đó, Chúa lại trực tiếp có cảm quan về một
Thiên Chúa rất khác biệt. Ngài có trực cảm là ta phải làm sao để các mảnh vụn
vẫn cứ là mảnh vụn. Ta không có khả năng tạo quan niệm hoặc hoàn tất “tổng thể”
ấy hầu để nó ăn khớp với những mảnh vụn như thế; và làm như thế mới tạo được ý nghĩa
cho mọi sự. Ta phải sống sao không cần đến những đó. Và ta còn phải từ bỏ lối
sống kết tụ không tưởng đầy ngẫu hứng giống như thế.
Đức Giêsu, thật ra, Ngài không muốn áp đặt
bất cứ hình thức xã hội hoặc mẫu mực nào về chính trị, đạo giáo hoặc loại hình biến đổi
thiên nhiên, hết. Bởi làm như thế tức là ta đã chống lại nhận thức về “mảnh
vụn”.
Đức Giêsu từng học hỏi kinh nghiệm sống tình yêu bí nhiệm
ở trong và về các “mảnh vụn” thấp hèn và thô thiển, vốn dĩ không thể trở thành
tổng thể hoặc thành phần tổng thể ấy. Đó chính là “tình yêu” đơn thuần, bởi chỉ
có tình yêu mới tôn trọng bản chất đích thực của “mảnh vụn nhỏ”. Đây, rõ ràng
là sự độ lượng nơi Tình Chúa thương yêu ta.
Hồng phúc an lạc, diễn tả uy lực biến đổi đang gần cận
bên ta –nơi thế giới gồm những “mảnh vụn nhỏ” có sự độ lượng được kề cận Chúa vốn
dĩ gắn liền vào sự thấp hèn và thô thiển. Lịch sử cần gần cận, chứ thật ra
không là diễn giải, phát xuất từ điểm tới của những yếu kém này.
Chính các “nơi” này, đích thực là nơi dấy lên một sự sống
vượt khỏi mọi khinh miệt và bao lực từ hệ thống quyền lực. Chính bằng việc tham
gia vào sự thể như thế, nên các cộng đoàn tín hữu của Chúa Kitô có thể gia nhập
Vương Quốc Nước Trời như Lời Ngài diễn tả ở Tin Mừng hoặc gia nhập vào công cuộc
Tạo dựng mới, như thánh Phaolô từng xác quyết.
Là tín hữu Đức Kitô, không có nghĩa là sống thụ động, mà
là khẳng định một cách chủ động niềm tin của mình rằng mỗi biến cố lịch sử đã
trở thành thời điểm cho niềm hy vọng có sự hiện diện của Chúa ở trong và ở với
những gì là thô thiển, thấp hèn. Theo nghĩa Chúa diễn tả, thì những gì cần được
bênh vực/biện hộ không là lối ra từ thế giới có nền lịch sử và chính trị thực thụ,
mà là sự gián đoạn khỏi tầm nhìn của chính nó.
Ơn Cứu Chuộc thành toàn không phải chỉ nhờ duy có sự
Thương khó mà thôi – mà sự Thương khó của Đức Giêsu là thành phần phải có trong
điều kiện thống khổ của nhân loại và ngang qua lịch sử cũng như tất cả những
thứ đó có tác dụng cứu chuộc con người. Tác giả Duquoc rất thích cái tiêu đề do
ông chọn
khi viết về Ơn Cứu Chuộc, bởi nó đem lại cho toàn thể lịch sử cái gọi là “Bản Giao hưởng được diễn tả cách chầm
chậm”.
Chú
thích quan trọng:
Tôi vẫn nghĩ: ý niệm về những “mảnh vụn nhỏ” nói ở trên
chợt đến từ triết học lãng mạn. Từ cội nguồn, ý niệm này được sử dụng theo
nghĩa của “Ánh lửa thần thánh”, sau đó đã trải dài cách rộng rãi. Thoạt đầu, ý niệm
này được bắt gặp từ tư tưởng đặc biệt của Kierkegaard, sau đó có Nietzsche và
đến thời Simone Weil nó càng hiện rõ hơn chí ít với lập trường/quan điểm của
Walter Benjamin, nữa. Tác giả Benjamin đây lại cũng nói rằng các “mảnh vụn” lại
đã “bão hoà” và “rực sáng” là yếu tố đảm trách sự vô cùng vô tận; và niềm hy vọng
thần thánh về một cứu chuộc không được “xác định cho rõ”. Ở đây, tôi thấy có sự
kết nối tư tưởng với tác giả T.S. Eliot, với Joyce, Kafka, v.v...
Phần
phụ thêm:
Năm 1999, Lm.
Christian Duquoc cũng viết một cuốn sách khác có đề tựa: “Je crois en Eglise. Précarie institutionelle de Dieu, Paris, Cerf.
Ở đây nữa, tác giả vẫn nhấn mạnh lên một điều là: tất cả
mọi cơ sở bất kể họ có tìm cách thực hiện mọi sự việc tích cực hay không đều ra
điêu đứng/khổ sở về hoạt động khác thường của các thể chế, vì họ cố duy trì
tính chính thống của riêng mình. Điều này được lối biện luận về chính kiến mà
ta gọi là thần học, vẫn quan tâm chứ ? Tuy nhiên, sự việc tỏ cho ta thấy Thiên Chúa
hiện diện ở thế giới là do Ngài tự quyết định như thế, và qua đó Ngài xoá bỏ
chính mình Ngài nên như vậy. Thể chế Giáo Hội lại cứ tuyên bố: mình là chứng nhân
của một Thiên Chúa như thế. Đúng ra chỉ có Lời Chúa rất khác biệt và không tinh
giản được, mới là nguồn gốc và bảo chứng cho việc thực sự mở lòng mình ra để
trở thành quà tặng của Thánh Thần Chúa, thôi. Chuyện đạo đức, nơi Đạo Chúa,
không có gì là lạ lùng hết, nhưng không là trọng tâm cho các sự thể ra như thế.
Đức Bênêđitô 16 và tông thư "Thiên
Chúa là Tình Yêu"
Lâu nay, nhiều người vẫn cố xác định xem ý nghĩa xác thực
của ngôn từ khi định nghĩa Tình Thương Yêu, như từ vựng: đức Mến Thương, tình
bằng hữu, ái tình, lòng bác ái, v.v… Thánh Kinh, thường tập trung vào lời kinh Shema ở sách luật Torah Do Thái trong đó
ghi rõ giới lệnh đầu: “Người phải yêu
thương Đức Chúa...” và ở thư thứ nhất chương 13, Thánh Phaolô gửi tín hữu thành
Côrintô cũng như thư thứ nhất Thánh Gioan đều đề cập đến Tình Yêu, như thế.
Qua tông thư này, Đức Bênêđitô 16 bàn về sự khác biệt từ
ngàn xưa giữa từ vựng Hy Lạp Eros ( Ái
tình ) và Agapè ( lòng mến mộ ). Eros,
là thứ ái tình thấy rõ nơi tình yêu thương nam nữ đầy dục tính, cứ vươn cao
vươn cao mãi để đạt toại nguyện cho bằng được. Trong khi đó, Agapè lại trầm xuống, quyết ra ngoài để
đến với mọi người, cũng tựa như sự tách bạch giữa tình yêu đầy chiếm hữu với
tình thương yêu mang tính dâng hiến. Từ vựng Eros, tập trung vào chính con người mình, còn Agapè lại là thứ tình mến mộ hướng về người khác, tức tha nhân. Agapè có đặc điểm không đòi điều kiện,
là thứ tình thiêng liêng, vô kỷ.
Đức Bênêđitô 16 khẳng định rằng: bao lâu Eros và Agapè còn kiếm tìm sự kết hợp đúng cách nơi thực thể là tình yêu
đích thực, thì khi đó bản chất thực thụ của tình yêu mới thành hiện thực. Các
tầm kích này đều thẩm nhập vào nhau. Tình yêu là thực tại đơn thuần gồm cả hai
tầm kích như thế.
Agapè tiếng Hy Lạp, tương đương với từ vựng
“Ahaba” tiếng Do Thái, cả hai đều có
nghĩa như một khám phá thực thụ về phía bên kia, biết quan tâm chăm sóc lẫn
nhau, vẫn kiếm tìm sự tốt lành của phía bên kia, tức của người mình yêu mến. Đó
là nhận định không theo nghĩa cảm giác mãnh liệt, nhưng theo nghĩa là cứ xuất hành
về phía trước mà cho đi và cho mãi để đến với người khác. Chúa thương yêu chúng
ta, là Ngài thương và yêu cùng một kiểu, rất tương tự.
Ở đây ta lại nhớ về sự kiện khi xưa
triết gia Aristotle không bao giờ nghĩ, đó là động lực ban đầu hoặc nguyên nhân
tiên quyết dẫn đến việc yêu thương ta. Người Do Thái dư biết Chúa thương yêu ta
bằng tình yêu rất “con người”. Ngài thương yêu ta rất mực, nên Tình Yêu của
Ngài còn được gọi là Eros và tình yêu
Ngài hoàn toàn mang tính chất rất Agapè
nữa. Chúa có mối tình rất nồng nàn với con dân Ngài. Tình Eros của Chúa đối với con người hoàn toàn là Agapè. Chúa là người yêu vẫn có nơi Ngài trọn vẹn sự đam mê của
tình yêu rất thực.
Với tôi, nói thế như thể bảo rằng: việc tháp nhập tình yêu
đầy tính chất đam mê vẫn đi vào tình mến mộ Agapè
của Thiên Chúa, ít ra là đã cho ta thấy sự công minh chính trực được tháp ghép
vào tình yêu thương thần thánh của Thiên Chúa.
Lm. Kevin O’Shea,
DCCT, bản lược dịch của Mai Tá ( còn tiếp )
No comments:
Post a Comment