Một con
người vượt trên bi kịch bản thân và gia đình
Hè năm
1987 tôi được cha già Giuse Vũ Ngọc Bích đón vào tu viện Thái Hà dưới danh
nghĩa là cháu đến giúp ông lúc tuổi già[1].
Từ đấy tôi bắt đầu biết cha Mát thêu Vũ Khởi Phụng, vì cha già Bích hay nhờ tôi
viết thư cho “chú Phụng”[2]
và vì ông bà cố của ngài lại sống ở Hà Nội, số 36 Trần Hưng Đạo, nên hai bên
hay qua lại thăm hỏi. Có chuyện gì vui buồn thường chia sẻ.
Mấy năm
sau khi cha Phong và tôi được gửi vào Tu viện Kỳ Đồng, thì chính cha Máttthêu
Vũ Khởi Phụng là người đón tiếp chúng tôi; từ đó trở đi tôi liên tục sống gần
ngài, dưới sự hướng dẫn của ngài, từ Hà Nội đến Sài Gòn. Nhờ vậy tôi mới hiểu
hơn về ngài và gia đình ngài mà tôi coi như là một trong những nạn nhân điển
hình của chế độ cộng sản.
Cả hai
ông bà cố của ngài đều thuộc dòng dõi gia đình quyền quý. Ông quê làng Trung
Lao, Nam Định, đạo gốc, tốt nghiệp tú tài bên Pháp và trường Luật Đông Dương.
Bà người Huế, gia đình ngoài Kitô giáo, thuộc khuynh hướng tân thời, thích nấu
ăn và có năng khiếu nghệ thuật, về sau được phong nghệ nhân. Bà học đạo với các
cha DCCT Huế và được rửa tội ở Sài Gòn. Cưới nhau xong, hai ông bà về sống ở
Thanh Hóa, vì khi ấy ông làm Tri phủ Tĩnh Gia. Vì vậy cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng
được sinh ra ở Thanh Hóa.
Ông cố là
vị quan thanh liêm, có tài quản trị, được dân yêu mến và kính trọng, có tinh
thần dân tộc, vì vậy năm 1945, chính phủ liên hiệp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
mời ông tiếp tục làm công chức ở Thanh Hóa. Tuy nhiên, đến năm 1946, phe cộng
sản trong chính quyền tiến hành thanh trừng những người quốc gia, trong bối
cảnh đó, ông cố bị cộng sản bắt đi tù; họ đưa ông từ Thanh Hòa vào giam ở vùng
Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Được nhắn
tin là ông cố bị đày đọa và sinh bệnh nặng, bà cố mau vào còn kịp nhìn mặt và
liệu cách đưa xác về nếu ông qua đời. Thế là bà cố vội vàng phải gửi ngài và
các em ngài về quê Trung Lao, để đi tìm chăm sóc ông. Thấy tình hình ông nguy
kịch và điều kiện trong tù khó có thể bảo đảm mạng sống, bà quyết định đeo bám
theo những vùng nơi ông cố bị cộng sản giam cầm, làm việc, tìm cách cứu giúp
ông cố, thỉnh thoảng mới về thăm ngài và các em ngài.
Trung
Lao, cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng học tiểu học tại trường của giáo xứ, rồi nhập
tiểu chủng viện Trung Linh. Tiếp theo qua các sinh hoạt trong Liên Đoàn Công
Giáo, bà cố quen biết Đức ông Trần Ngọc Thụ, bấy giờ là Thư ký riêng của Đức
cha Lê Hữu Từ và từ mối quen biết này, cha Mátthêu được gửi vào học ở trường
Trần Lục, Phát Diệm, nơi có môi trường học tập hiện đại và an ninh ở Miền Bắc
thời bấy giờ. Năm 1952, bà cố từ Miền Trung ra Bắc đưa ngài và các em ngài ra
Hà Nội, em ngài được gửi cho người thân, còn ngài thi được gửi vào Đệ tử viện
DCCT như mong muốn từ ban đầu của bà cố từ khi đang mang thai ngài.
Năm 1954
cộng sản lên nắm quyền ở miền Bắc, bà cố cho ngài theo các cha DCCT di cư vào
Nam. Các em ngài cũng di cư theo người thân theo các em của ông cố. Còn bản
thân bà cố ở lại Miền Bắc theo ông đang đi tù cộng sản. Vốn là người đảm đang,
tháo vát bà làm được được những việc lạ lùng, nhờ vậy ông mới sống sót và cuối
cùng mãi đến năm 1973 ông mới được trả tự do khi hiệp định Paris được ký kết.
Đến năm
1975 cộng sản chiếm Miền Nam, đất nước thống nhất, nhưng như tống thống Thiệu
nói “đó là nền hòa bình của nấm mồ”. Gia đình ông bà cố vẫn lâm cảnh phân ly.
Cô con gái Triều Nghi cùng gia đình bên Hoa Kỳ; con trai thứ, Chú Giao, cựu sĩ
quan cộng hòa, vào trại tập trung, rồi khi mãn hạn lại đi HO. Ở lại Việt Nam
còn mình cha Phụng ở Sài Gòn, trong khi ông bà cố ở Hà Nội. Từ năm 1990 các
cuộc thăm viếng Bắc-Nam mới thường xuyên hơn và mãi cho đến năm 2008 khi Cha
Phụng ra Hà Nội làm bề trên tu viện Thái Hà thì ông bà cố và ngài mới được đoàn
tụ ít năm trước khi hai ông bà lần lượt qua đời.
Gia đình
lâm vào bi kịch như vậy, nên việc giữ được ơn gọi, quả là khó khăn. Tại Miền
Nam, cuộc sống của các em ngài trong hơn 1 thập niên đầu cũng chật vật. Ngài
cảm thấy phải có trách nhiệm với các em trong tư cách là anh cả. Từ đó ngài có
ý định tạm dừng việc tu của bản thân một thời gian để làm gì đó giúp các em.
Suy nghĩ ấy còn bị tác động bởi cuộc chiến Việt Nam và trào lưu xét lại ơn gọi
thời hậu công đồng của nhiều tu sĩ. Tuy nhiên, nhờ sự cố gắng của ngài và của
các em ngài, nên cuối cùng Chúa cũng giúp ngài cũng vượt qua.
Năm 1970
ngài được thụ phong linh mục. Bà cố của ngài ở Hà Nội cũng biết tin qua ngả Sài
Gòn-Canada-Pháp-Hà Nội. Bà cố mừng lắm. Bà kể rằng ngày chịu chức của ngài, bà
cố làm con gà mang sang mời Đức cha Khuê và các cha bên Tòa Tổng Giám Mục ăn
mừng, rồi xin các ngài dâng lễ tạ ơn. Thế mà vì việc này, sau đó bà cố đã bị
công an triệu tập sách nhiễu, hạch hỏi.
Tu viện
Thánh Gioacchino Roma, ngày 3 tháng 4 năm 2016
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
(còn
tiếp)
[1] Cha Giuse Vũ Ngọc Bích, DCCT, người sống sót ở
Hà Nội là em của bà tôi, lúc ấy tuổi già mắt kém, không còn tự mình đọc sách,
viết thư từ được.
[2]Cách gọi của cha Già Bích. Cha Mátthêu Vũ Khởi
Phụng lúc đấy ngài đang là cố vấn của Tỉnh Dòng lại phụ trách Dự tập.
No comments:
Post a Comment