Chương 4
Đức Giêsu
đã giảng và dạy những
gì?
(bài 12)
Phúc âm kể dụ-ngôn hạt
cải để làm gì? Phải chăng để bảo: Vương Quốc Nước Trời khởi từ hạt cải, sau đó
lớn mạnh?
Đó
là nội-dung lời chú-giải ta nghe rất thường ở Phúc Âm. Thế nhưng, ở đây cũng cần
xem kỹ loại cây cải này sống ở Địa Trung Hải, tức: loại cây mà chim trời có thể
làm tổ ở đó. Quả là, cây cải tự sinh sôi/nảy nở từ một hạt nhỏ. Khi cây
tăng-trưởng, nó thành bụi rậm cao gần một mét và có cây còn cao hơn thế. Nhưng theo
tôi, thì khi nghe kể dụ-ngôn này, người nghe sẽ nắm trọn ý Đức Giêsu nói qua câu
truyện.
Tác-giả
“Pliny Già”, là người đã quá vãng vào năm 79 sau Công nguyên, vì ông dám đến gần
sát núi Vesuvius đang bốc lửa. Vào dạo ấy, ông có viết về cây cải trong sách có
tựa đề là “Thiên-nhiên Sử”. Ông mô-tả
vị cay nồng đến “cháy môi/miệng” của cây, nhưng theo ông, nó lại có tính bổ-dưỡng
cho sức khoẻ con người. Ông nói: cây cải loại này, thường mọc ở khu hoang-dã,
nhưng ta vẫn có thể cải-thiện nó bằng cách đem về ghép với cây nào khác trong
vườn nhà, cách cẩn-thận. Và ông bảo: “Khi
gieo xuống đất, nó sẽ không chừa khoảng đất trống nào ở xung quanh. Bởi, hạt của
nó rơi xuống, sẽ đâm chồi thành cây lớn ngay lập tức.”
Nói
cách khác, khi kể dụ-ngôn hạt cải, Đức Giêsu có ý bảo: cây này sẽ lấn chiếm những
nơi không ai muốn nó tới; và nó có khả-năng tránh được mọi khống-chế/ràng-buộc bởi
thế nên, nếu không thích, ta có thể dễ dàng bứng nó đi. Đức Giêsu chủ-trương
Vương Quốc Nước Trời, giống bụi cải cay nồng này, lại có đặc-trưng/đặc-thù là khi
ta đã vất bỏ nó rồi, vườn tược của ta bị nguy-hại vẫn không nhỏ. Sự thật thì, tại
các khu trồng trọt, ta vẫn thấy chim trời tới đó đậu trong phút chốc hoặc làm tổ
để ở, dù chẳng ai thích chúng đến. Là nhà nông, chẳng ai muốn thấy chim trời đến
ruộng/vườn nhà mình để ăn hạt giống lẫn đậu hạt do mình ra công trồng trọt. Hơn
nữa, đây là ẩn-dụ khiến người nghe kinh-ngạc, sửng-sốt. Ẩn-dụ về Vương Quốc nói
ở đây, là thứ dịch hại gây cho chủ vườn vốn dĩ chăm lo canh-tác rất cẩn-thận.
Nghe thế, hẳn quý vị lại sẽ nghĩ, rằng: giới chủ-đất cùng như tá-điền, hằng
ngày vẫn không ngừng lao-động hoặc cả những người vô công rỗi nghề hoặc các tay
hành-khất tuyệt-vọng, cũng đáp trả theo cách giống hệt như thế, chí ít là về
Vương Quốc Nước Trời được ví như cây cải.
Nếu thế, dụ-ngôn hạt
cải lại kể nhiều hơn các bài giảng hay sao? Kể truyện dụ-ngôn có buộc người kể
phải suy về ý-nghĩa của cốt truyện, không?
Nghe
truyện dụ-ngôn Đức Giêsu kể, rồi suy cho kỹ, sẽ giúp ta trả lời các câu tương-tự,
cách tích-cực. Thật ra thì, truyện dụ-ngôn giúp ta hiểu được các câu Đức Giêsu nói
về “Vương Quốc Nước Trời” mà giáo-lý trong Đạo từng qui-chiếu. Điều này cũng thấy
ở văn-bản khác, như Tin Mừng do tác-giả Tôma viết, mà tôi xin phép được trích-dẫn
ở đây một đoạn như sau:
“Đức Giêsu nói: “Có người từng đón khách quí đến nhà mình
khoản đãi. Chuẩn bị bữa ăn tối cho khách, ông sai đầy tớ đi ra ngoài mời khách
vào nhà. Người đầy tớ đến mời người thứ nhất và nói: ‘Thày tôi mời ông đến.’
Người ấy bảo: ‘Tôi đang có mấy người khách buôn hàng còn nợ tiền của tôi, họ sẽ
đến chỗ tôi vào tối nay. Tôi phải đi đón để còn ra hiệu-lệnh cho họ nữa. Vậy
xin khất để hôm khác nhé.’ Người đầy tớ lại ra đi mời người khác và nói với người
này như sau: ‘Thày tôi mời ông đến.’ Người này lại nói với đầy tớ rằng: ‘Tôi vừa
tậu căn nhà và họ gọi tôi đi xa mất cả ngày. Tôi không có giờ đến dự đâu.’ Người
đầy lại đi mời người khác và bảo: ‘Thày tôi mời ông đến.’ Người ấy lại cũng nói
với đầy tớ rằng: ‘Bạn của tôi nay có đám cưới nên tôi phải sắp đặt buổi tiệc
cho bữa đó nên không đến được. Tôi xin lỗi không đến dự bữa tối với thày của ông
được.’ Người đầy tớ lại đến với người khác và nói với người này rằng: ‘Thày tôi
mời ông đến.’ Người được mời bèn nói với đầy tớ rằng: ‘Tôi vừa mua được căn hộ
nên phải đi thu tiền thuê nên không thể đến được. Tôi thành-thật xin lỗi.’ Người
đầy tớ trở về tâu với chủ: ‘Những người mà Ngài mời tới dự tiệc đều xin kiếu.”
Người chủ bèn nói với đầy tớ của ông rằng: ‘Ngươi hãy ra ngoài đường và đem về
đây bất cứ người nào ngươi gặp để họ dự tiệc.’ Mọi kẻ buôn người bán [sẽ] chẳng
vào được nơi ở của Cha ta.”
Ở
câu cuối, Ngài lại bảo: “Mọi kẻ buôn, người
bán sẽ chẳng vào được nơi ở của Cha ta”,
đó là lối diễn-tả của tác-giả
Tôma về ý-nghĩa của dụ-ngôn. Trong khi tác-giả Luca kể, ông lại sử-dụng cụm-từ
“Những người bị ruồng bỏ” được gọi đến
dự tiệc. Còn tác-giả Mátthêu lại viết: “Kẻ
tốt người xấu” tụ-tập đến’. Tuy thế, đằng sau các giải-thích riêng này, ta
thấy cùng một lối kể truyện phổ-biến cùng khắp, vẫn tuân-theo đường-lối rất giống
nhau.
Qua
truyện trên, Đức Giêsu kể về người lo tiệc để đãi khách, nên sai đầy-tớ ra
ngoài mời bạn-bè ông đến. Người được mời, cứ tuần-tự kiếm lý-do này/khác để xin
kiếu, không đến. Xem thế thì, truyện ở đây cho thấy: tiệc đã sẵn, nhưng phòng
tiệc vẫn cứ trống, nên chủ nhà bèn sai gia-nhân thay thế khách chối-từ bằng
cách mời bất cứ ai sống ở ngoài đường.
Ở
đây, ta cũng nên dừng lại đôi phút, để suy về cảnh tình xảy ra, vào lúc đó. Giả
như ai đó, sống vất-vưởng ngoài đường, lại được mời dự tiệc, hẳn người tham-dự sẽ
gồm đủ mọi giới, mọi giai-cấp, ngạch-trật trên dưới rất lẫn lộn. Và khi đã vào ngồi,
người này lại sẽ dựa vào người kia, nam cạnh nữ, người tự-do ngồi sát dân nô-lệ,
người cao/sang sẽ ngồi cạnh kẻ dưới thấp, người thanh-bạch cạnh người tầm-thường
cả trong nghi-thức ăn/uống, lễ-lạy. Và dĩ nhiên, điều này lại sẽ chao-đảo cả xã-hội
và trở-thành mối đe-doạ các qui-định dựng cuộc sống đã được nghiên-cứu cẩn-thận
ở những thế-kỷ đầu.
Chuyện này không chỉ
xảy ra ở thế kỷ đầu mà thôi. Hãy tưởng-tượng, thời buổi này lại có người dám huỷ
bữa tiệc linh-đình đã dọn sẵn thay vào đó, cho gọi kẻ đầu đường xó chợ đến ăn, sao?
Đó
chính là vấn-đề. Riêng đây, hãy tưởng-tượng trường-hợp có người hành-khất nào
đó tự dưng đến trước cửa nhà mình để xin ăn. Có thể, quý vị cũng bố thí cho người
ấy đôi chút độ-nhật bù cho họ cả ngày đường, phải “lang bạt kỳ hồ” đây đó. Có
thể, lại có ai đó độ-lượng hơn, mời người lạ vào tận bếp, lấy đồ nhà ra cho nguời
ấy ăn. Hoặc giả, có người còn ưu-ái hơn, kêu mời người ấy bước thẳng vào phòng
ăn để cùng với gia-đình ăn cơm tối, thoả thích. Hoặc, bảo người dưng khách lạ cứ
trở lại vào cuối tuần để cùng ăn/cùng uống với bạn bè/người thân vui chơi chè
chén với gia-đình, chăng?
Lấy
ví-dụ khác: ví thử ta là Giám đốc công-ty danh tiếng nọ, đã sửa soạn bữa tiệc
nhẹ tại phòng khách công-ty; hoặc, sửa soạn bữa ăn trưa ở nhà hàng để khoản-đãi
các trưởng sở hoặc mở tiệc đặc-biệt cho các sếp hoặc phó phòng ở nhà mình, mà bị
từ-chối, hẳn người tổ-chức có thấy gì khác câu truyện ở trên không? Thế-kỷ thứ
XX đâu nào khác thế kỷ đầu đời, khi những người được mời đến thưởng-thức món ăn
ngon, là để khoản-đãi các đối-tác đồng-cấp hầu củng-cố địa-vị mình đang nắm
trong công-ty, hoặc trong xã-hội mình sống; chí ít là để duy-trì quan-hệ thương-mại
với nhiều người.
Xem
thế thì, ăn uống không chỉ là tác-động đơn giản về thể-lý để xua cơn đói đang dồn
cục trong bụng. Các nhà nhân-chủng-học có kể rằng: Các “qui-định” ẩm-thực chỉ là ảnh-hình thu nhỏ của xã-hội đưa ra qui-định
nào đó trong quan-hệ và giáo-tế của nhiều
người. Những gì ta thực-hiện tại bàn ăn, được coi như bản-đồ cho thấy sự
khác-biệt về kinh-tế, xã-hội và chính-trị ở một số nơi.
Hãy
lấy ví-dụ nước Mỹ vào đầu thế-kỷ thứ XX, các phong-trào đòi quyền sống đã nổi dậy
ở một số tiểu-bang. Hãy nghĩ về các cơn giận của nhiều người da trắng tại bữa ăn do “Woolworth” tổ-chức tại quầy cho
khách hàng người da mầu đã được ăn uống thoả thuê lại còn chễm chệ ngồi sai nhân-viên
phục-vụ lấy bánh mì kẹp thịt với Coca-Cola cho mình. Có khác cảnh-tượng kể trên
không!
Xã
hội hiện-đại tuy rực sáng tính dân-chủ, nhưng cũng có qui-định về ăn uống, như:
ăn ở đâu? Khi nào? Cùng bàn với ai? Khi xưa, cũng có nhiều đạo-luật nhấn mạnh việc
chống báng người da mầu, tuyệt-đối không cho họ ăn/uống ở một số nơi qui-định,
và nhất là: không cho phép người da mầu được phép ngồi ăn chung với người da trắng.
Qui-định
tổ-chức các bữa ăn trưa khi xưa, là ảnh-hình thu nhỏ về khuôn-mẫu giao-tế
nhân-sự ở xã-hội chủ-trương phân-biệt chủng-tộc, nói chung. Thành thử, khi giới
trẻ da trắng cũng như da mầu, dám phá bỏ
các qui-định hoặc luật-lệ về chuyện ăn uống/chung đụntg với các sắc-tộc khác
nhau hoặc việc đi chung cùng một xe buýt này/khác, là họ đã tạo sự chống-báng ở
xã-hội nơi họ sống tựa như thế. “Tiệc bàn phân-biệt” nhiều chuyện đã biểu-trưng
phân-biệt/kỳ-thị ở xã-hội cùng khắp, lớn/nhỏ. Trong khi đó, “Tiệc bàn rộng mở” lại vẫn là biểu-tượng
cho cộng-đồng nhân-loại rất đồng đều, “nên-một”. Và, đó là những gì từng xảy đến
dưới thời Đức Giêsu hoạt-động và sinh sống.
Dù sao thì dụ-ngôn chỉ
là truyện kể. Sao cứ hiểu truyện kể, chỉ mỗi nghĩa đen?
Dĩ
nhiên, đó chỉ là truyện kể, nhưng truyện đây thách-thức mô-hình xã-hội thu nhỏ,
coi đó như chốn miền của hệ-cấp cầm-quyền đầy phân-biệt. Và, truyện kể đây thực-sự
còn tệ hơn dụ-ngôn được kể nữa; bởi lẽ, Đức
Giêsu sống-thực truyện dụ-ngôn do Ngài kể cho mọi người hiểu bằng cách mời
gọi mọi người hãy ngồi vào bàn tiệc trong đó có đủ mọi hạng người khác nhau.
Khác, về giới-tính. Khác, cả giai-tầng xã-hội hoặc trong đó có người còn đắn
đo, do dự.
Hẳn,
quý vị còn nhớ những điều được đề-cập hôm trước, trong đó có nói đến những lời
buộc tội ông Gioan Tẩy Giả bị ma-nhập do bởi ăn kiêng lâu ngày; và cả chuyện bảo
rằng: Đức Giêsu là kẻ “ham ăn tạp uống” do bởi Ngài ngồi cùng bàn với đám tội phạm
cùng thu thuế và cả lũ điếm đàng nữa, cũng thế.
Đành
rằng, cáo buộc như thế chỉ là lời cộc cằn/thô-bỉ, mà thôi. Nhưng, ngay cả những
lời nói có tính ơ hờ, “chụp mũ” như thế cũng có cái lý riêng của nó; hoặc, dựa
trên một số nền-tảng được định-vị trong xã-hội thời đó là cốt để thoá-mạ, chửi bới
người khác. Đức Giêsu sống đích-thực dụ-ngôn
được kể về “Tiệc bàn rộng mở” qua đó,
Ngài giang tay đón chào mọi thực-khách, lại đã tạo lời cáo-buộc bảo rằng: Ngài là kẻ “ham ăn/tạp uống” chỉ làm bạn với
đám thu-thuế, điếm-đàng hoặc tội phạm, mà thôi.
Nói
cách khác, những lời đả-kích ở trên chỉ muốn bảo rằng: Ngài không phân-biệt lớn/bé,
già/trẻ, giàu/nghèo; cũng chẳng kỳ-thị trắng/đen, nam/nữ. Và bởi vì, giới nữ
vẫn hay có mặt vào lúc Ngài ngồi cùng bàn tiệc với hết mọi người, đặc-biệt là
các nữ-phụ không chồng không con, nên các cáo-buộc bảo rằng “Đức Giêsu ham ăn/mê
uống cả với giới “phàm-phu tục tử”, “điếm đàng” là việc lăng-nhục chĩa thẳng
vào các nữ-phụ dám vượt tầm kiểm-soát của nam-giới theo lề-luật ở xã-hội thời
đó. Thành thử, ngôn-từ do người lăng-mạ sử-dụng như: quân thu thuế, đám đĩ điếm,
tội-phạm… là ngôn-từ được dùng để giảm-giá những người cởi mở, dám sống tự do
giao-tế với hết mọi người, trong khi nam-giới chuyên khuynh-đảo vẫn có thói “kẻ
cả”.
Thành
thử, với Đức Giêsu, Vương Quốc Nước Trời được tả bằng hình-ảnh của việc sửa-soạn
bàn tiệc có chỗ ngồi hẳn hoi. “Tiệc bàn rộng
mở” không phân-biệt một ai, lại đã diễn-tả một xã-hội thu nhỏ không kỳ-thị.
Và quan-niệm cũng như tầm-nhìn này, trên căn-bản, đã chạm phải giá-trị nền-tảng
của nền văn-hoá Địa-Trung-Hải, vào thời xưa. Cũng không thể bảo rằng: có thể
cũng hơi sớm, nếu có ai đề-nghị ta nên nhận ra được sự giận-dữ kéo theo sau việc
“ngồi cùng bàn” vẫn còn mới mẻ, vào thời ấy. Đó, cũng là một trong các lý-do khiến
họ giam giữ và xử trảm Ngài, không cho Ngài được phép hoạt-động giảng rao/giúp
đỡ người nghèo-khó/cùng-quẫn nữa.
Tiệc Tạ Từ của Đức
Giêsu có khớp với hình-ảnh buổi tiệc như thế không?
Dĩ
nhiên là, ta hay có cảm-giác nghĩ rằng: các bữa ăn như thế, là do truyền-thống lễ
lạy của giáo-hội thời cổ chỉ muốn dặm thêm sắc-mầu điểm-tô bằng từ-vựng như:
“Rước Mình Chúa”, “Lễ Tiệc Ly”, hoặc “Tiệc Thánh Thể”, vv. Cũng có thể, Đức
Giêsu từng dùng bữa tối cuối cùng với các môn-đệ của Ngài, cũng không chừng.
Thế
nhưng, câu hỏi về tính-chất lịch-sử của bữa tiệc như thế được đặt ra qua câu hỏi:
Ngài có thiết-lập tiệc Vượt Qua Mới, hầu biểu-trưng việc Ngài cương-quyết đi
vào cõi chết vì Đạo Chúa hôm ấy hay không, hoặc đã có lời dặn dò mọi người hãy
tổ-chức những buổi “Tiệc thánh” như thế hầu tưởng-nhớ Ngài, không? Bằng-chứng lịch-sử
cho thấy câu chuyện này, nay bị lẫn-lộn/hoà-trộn.
Tác-giả
Phaolô hẳn đã hiểu việc Ngài thiết-lập những buổi như thế qua bức thư thứ nhất
gửi người dân thành Côrinthô, ở đoạn 11 câu 22-25. Nhưng, sách Điđakê, một tài-liệu được thiết-lập hồi cuối
thế-kỷ thứ nhất, đã mô-tả tín-hữu thời đầu có thói quen cùng nhau ăn uống chung
trong cộng-đoàn tín-hữu và đã cho thấy: các tín-hữu thời này vẫn không hay biết
gì về các nghi-thức này/khác mang ý-nghĩa của Bữa Tiệc Tạ Từ. Và, tài-liệu này cũng
không cho biết: có hay không nối-kết nào về Tiệc Vượt Qua và có buổi tưởng-niệm
nào về việc Đức Giêsu ra đi vào nỗi chết, như thế!
Thành
thử, riêng tôi, tôi sẽ diễn-tả cảnh tình ấy như thế này: Những gì Đức Giêsu để
lại cho hậu thế, vẫn là truyền-thống về “Tiệc
bàn rộng mở” như một dấu-chỉ về sự gom-gộp chung cùng cộng-đoàn và cuộc sống
ngang bằng/bình-đẳng ở Vương Quốc Nước Trời. Mãi sau này, một số đoàn/nhóm
Kitô-hữu mới lập ra lễ Tiệc Ly. Và thêm vào đó, là việc tưởng-niệm cái chết của
Đức Giêsu vào truyền-thống san-sẻ của ăn/thức uống chung cùng nhau, như thế.
Trước đây, ông qui-chiếu
phong-trào nhân-quyền ở Hoa-Kỳ để minh-hoạ cho cuộc vận-động của Đức Giêsu ở thế-kỷ
đầu. Phải chăng ở đây có vấn-đề, là: khi diễn-tả sự ngang bằng giữa mọi người, ông
đã vẽ ra hình-ảnh đầy sắc mầu hiện-đại chứ? Có phải ông cũng phóng lên cao giá-trị
dân-chủ thời hiện-tại ngược về thế kỷ đầu, chứ?
Không
phải thế. Tôi chỉ vẽ lên những gì mang tính triệt-để hầu làm nổi-bật kinh-nghiệm
ta có về nền dân-chủ hiện-thời.
Hãy
cho phép tôi định-vị thế này: Những người như các nông-gia sống đời “chân lấm
tay bùn” đến tận cổ, đã lựa chọn hai giấc mộng khác nhau. Một, về thế-giới
trong đó họ đem công việc “chân lấm tay bùn” của họ chuyển cho người khác. Điều
đó, là hy-vọng dễ hiểu hoặc cho cả việc lên kế-hoạch trả thù/trả đũa nữa. Giấc mộng thứ hai, là công bằng/chính-trực của thế-giới
trong đó họ không làm người khác phải “chân lấm tay bùn” đến tận cổ, gì hết. Lấy
ví-dụ chị nông-dân nọ không rõ tên tuổi, từng viết từ Sicily, nước Ý kể cho nhà
báo nghe về cuộc nổi dậy của nông-dân vùng này vào năm 1893, bằng những giòng như
sau:
“Chúng tôi muốn mọi người làm việc như chúng tôi đây. Xã-hội
này, sẽ không còn kẻ giàu/người nghèo khác nhau nữa. Tất cả đều có bánh ăn cho mọi
người và con cháu họ. Chúng ta, sẽ ngang bằng/đồng đều không ai hơn ai, kém ai
hết. Tôi đây có 5 mụn con nhỏ nhưng chỉ có một phòng bé tí tẹo vừa để ăn vừa để
ngủ và làm hết mọi thứ; trong khi đó, nhiều chủ đất lại có đến mươi, mười hai căn
phòng lớn nhỏ, đầy đủ chỗ cho một người… Sẽ đủ chỗ, để mọi người có thể ngồi chung
với nhau san sẻ chia cho nhau những thứ mình sản-xuất, rất công bằng, hoà-hoãn”.
Thế-kỷ
đầu, nhiều người Do-thái biết nhìn về tương-lai để trả-thù/trả đũa hết mọi thứ,
mọi người. Đức Giêsu sống với những người nhìn ra được một tương-lai tươi-sáng
hơn. “Tiệc bàn rộng mở”, chủ-trương chấm-dứt
các lạm-dụng quyền-lực; thay vào đó, đem lại cuộc sống ngang bằng/đồng-đều cách
triệt-để diễn-tả bằng câu giảng-dạy của Đức Giêsu. Xem thế thì: việc tạo Vương
Quốc Nước Trời không là phóng-ảnh nhìn thấy trước về nền dân-chủ hiện-thời. Nhưng,
Vương Quốc Nước Trời mang tính triệt-để hơn, đáng sợ hơn bất cứ thứ gì ta tưởng-tượng.
Thế
nên, dù không chu-toàn được trọng-trách ấy, hoặc không chấp-nhận tầm-nhìn ấy,
ta cũng không nên giải-thích nó theo nghĩa yếu-hèn, được. Hãy tránh làm điều gì,
dù có tác-giả xưa từng làm thế khi viết Tin Mừng, chỉ nhằm mục-đích để thuần-thục-hoá
lời nói hoặc việc làm của Đức Giêsu cho dễ hiểu và dễ chấp-nhận.
Tầm
nhìn về Vương Quốc Nước Trời do Đức Giêsu tạo cho ta, có thể cũng khó mà
phiên-dịch ngay tức thời, thay cho hoàn-cảnh xã-hội thực-tế nào khác của con
người. Tầm nhìn về Vương Quốc Nước Trời, ta nên coi đó như những gì hiện-hữu tuy
có căng-thẳng nhưng sáng-tạo đối với hoàn-cảnh hoặc sắp-đặt của con người trong
xã-hội.
May
thay, sự việc ấy thúc-bách ta cố-gắng nhiều hơn nữa, hầu tránh mọi lạm-dụng có
thể có; và đem công-bằng/chính-trực về với mình. Điều này, là để loan báo
Thiên-Chúa công-bằng/chính-trực cách triệt-để hầu mời gọi ta thiết-lập một xã-hội
không thua kém, ở dưới thế. Giả như ta đáp lại rằng: không thể làm thế được,
thì Thiên-Chúa có lẽ cũng đáp lại: nếu thế, tương-lai thế-giới cũng không thế
được.
Phải chăng sứ-điệp của
Đức Giêsu về Vương Quốc Nước Trời đều liên-quan đến hành-động? Đức Giêsu có đưa
ra ý-tưởng hoặc chương-trình nào không?
Như
ta biết, Đức Giêsu sống ở thời có những chao-đảo/xáo trộn xảy ra trong xã hội.
Thế nên, cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời”
mang nghĩa xã-hội và chính-trị đối với người nghe. Như thế, có thể bảo: trăm phần
trăm điều đó có nghĩa tôn-giáo; nhưng cũng trăm phần trăm mang nghĩa chính-trị;
trăm phần trăm có nghĩa thần-học, và trăm phần trăm có nghĩa kinh-tế/xã-hội nữa.
Cũng
có thể, lời Đức Giêsu răn dạy chỉ mang tính thiêng-liêng
không liên-quan đến các khủng-hoảng khiến dân-con của Ngài phải đối đầu. Cũng có
người hỏi: tại sao, trong sự-kiện nào đi nữa, đám nông-dân lại chấp-nhận lắng
tai nghe Ngài dạy bảo? Phải chăng, là thứ cám-dỗ đặc-biệt đối với những người như
chúng ta là học-giả kinh-điển hoặc là nhà giảng-thuyết từng diễn-nghĩa lời/lẽ của
Đức Giêsu theo cung-cách trí-thức, chỉ coi đó như thành-phần của lịch-sử tư-tưởng,
mà thôi không?
Tuy
là thế, những gì tôi nhấn mạnh ở đây, cốt ý nói: Đức Giêsu không bàn-luận về Vương Quốc Nước Trời,
nhưng Ngài lại hành-động cách đích-thực
và kêu mời mọi người hãy thật tình thực-hiện động-tác ấy. Giả như, thực-tế chuyện
Ngài làm chỉ cốt về Vương Quốc Nước Trời mà thôi, thì Galilê chốn-miền-ở-bên-dưới,
có thể sẽ mở miệng to mà hoan-nghênh Ngài cho lớn tiếng.
Dạo
trước, tôi cũng từng hăng say tranh-luận rằng: việc Đức Giêsu tích cực mời gọi
mọi người ngồi vào bàn tiệc chung, đích-thị là hành-động vi-phạm qui-tắc xã-hội
mà thời đó mọi người không có thói quen làm thế. Và điều ấy, đem đến cho Ngài lời
nhục-mạ rất thậm-tệ, để bảo rằng: Ngài là “người ham ăn/tạp uống, kết bạn với dân
thu thuế, phường tội phạm”, vv.. “Tiệc
bàn rộng mở” của Ngài khi xưa chỉ là mẫu-mã của một xã-hội thu nhỏ, thôi.
Ở
đây, tôi muốn nhấn mạnh thêm một điều, là: sự việc tương-tự cũng đã xảy đến,
khi Đức Giêsu chữa lành chúng dân ở đời.
Việc Ngài làm, không đơn-thuần chỉ là hành-động cá-nhân mang tính xót-thương, mà
là cung-cách rất khác, hầu tạo-mẫu cho Vương Quốc Nước Trời đối đầu với mẫu
mã/hình-hài từng có sẵn về cuộc sống ở xã-hội, ngoài đời.
Giả
như ta không giảm-thiểu Đức Giêsu xuống thành bậc thày chỉ răn-dạy mỗi ý-tưởng
trừu-tượng thôi, thì điều quan-trọng đối với ta, là: hiểu rằng Ngài có tự-do chữa-lành
cũng như tổ chức “Tiệc bàn rộng mở” cho
mọi người. Và điều này, lại sẽ đưa ta vào những gì tôi sẽ nói ở chương tiếp.
Cựu linh-mục John
Dominic Crossan
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment