Câu 31b:
Các ân-điển Thần Khí là kho quí-báu của giới
siêu-nhiên. Thánh Faolô muốn các tín-hữu nỗ-lực đạt đến, nhưng cách riêng là
những ơn có thể gây ích-lợi cho cộng-đoàn. Nhưng trên hết các ơn đó, họ chớ
quên rằng ơn làm viên-thành mọi ân-điển là chính Agapè Thiên-Chúa ban xuống. Ngay đây, chúng ta fải nói là tiếng Agape dùng một cách mập-mờ: nhiều khi
chúng ta không biết rõ là Agapè đó
Agapè Thiên-Chúa đối với chúng ta, hay là Agapè
của chúng ta đối với Thiên-Chúa, hay là Agapè
của người ta đối với nhau.
Đoạn 13
câu 1:
Dẫu một người trổi-trang đến đâu về ân-điển,
và đức siêu-quần bạt-chúng, thì cũng không fải vì thế mà người ấy có giá-trị
nơi Thiên-Chúa nếu không nhờ Agapè
và ở trong Agapè.
‘Tiếng nhân-loại và thiên-thần’: ám-chỉ đến ngữ-ân.
Tiếng thiên-thần: kiểu nói muốn nhấn vào một ngữ-ân tuyệt-vời không thể
tưởng-tượng.
‘Thanh la phèng phèng, chũm choẹ chập cheng’: tiếng dùng trong
Hy-Lạp gợi đến thanh-âm các nhạc-khí này. Trong thời đó, các nhạc-khí nói đây
được dùng trong tế-tự thần Dionysos. Kybèlê (Corybantes); một lời mỉa-mai: liệt
hàng những kẻ nói tiếng lạ không lòng Mến với hạng đồng-bóng ngoại-đạo.
Đoạn 13
câu 2:
So-sánh một loạt đặc-sủng cao hơn với lòng
Mến: ơn tiên-tri, ơn trí-tri, thấu tỏ các mầu-nhiệm, lòng tin mạnh chuyển cả
núi non.
Đoạn 13
câu 3:
Đối-chiếu
lòng Mến với những việc anh-hùng xả-kỷ.
Có vấn-đề bình-luận văn-bản tiên-quyết: để
chịu thiêu (kauthèsomai) hay để vinh-vang (kaukhèsômai): Chứng-chỉ văn-bản nói
được là xấp-xỉ bằng nhau. Nhưng trong 2 câu đầu, không nói đến một động-lực
xử-trí hèn kém. Vả lại, đem ngay vào đây, một ý-tưởng như thế tất sẽ làm mất
hiệu-lực của ‘mà tôi lại không có lòng
mến’. Vậy fải giữ văn-bản: để chịu thiêu.
Thánh Faolô ám-chỉ đến gì? Có những
giải-thích này:
-có những tín-hữu đã chịu tử-đạo bằng lửa
thiêu. Không cái-nhiên.
-ám-chỉ đến tử-đạo Do-thái: Dn 3: 23tt; 2M 7:
3-tt (Truyền-tụng Do-thái còn nói đến những người như Khanina ben Teradion, và
nhất là truyện hoang-đường về Abraham (Pseudo-Philo): rất có thể!
-Những cuộc tự-thiêu: Truyện Hercule
(Heraklès) rất danh-tiếng.
Nhưng những thí-dụ danh-tiếng vào thời này là
truyện những fakir Ấn-độ, bè khắc-kỷ
cũng nên làm gương cho sự tự-do tâm-hồn của triết-gia (Kalanos vào thời
Alexandrô đại-đế; Zamorkos.) (Clêmentê Alexand. Cũng nhắc lại nố những
triết-gia đó, và gọi họ là gymnosophistai Ấn-độ).
-Còn một giải-thích nữa: Preuschen muốn hiểu
về sự hy-sinh thương người đến đỗi bán mình làm nô-lệ và đành chịu lấy dấu
nô-lệ bằng sắt nung.
Ít ra trong câu 3 này, thấy rõ được rằng Agapè không hoàn-toàn chỉ là bác-ái,
từ-bi hỷ-xả, mà còn là tâm-hồn ở trong nữa.
(còn tiếp)
Lm
Nguyễn Thế Thuấn CSsR
(trích bài dạy Kinh thánh hồi thập-niên ’60)
No comments:
Post a Comment