Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách Đệ Nhị
Luật đã trình bầy về vai trò và sứ vụ của ngôn sứ trong cộng đồng Do Thái. Ơn gọi
ngôn sứ thật cao cả. Ngôn sứ là người nói Lời Chúa. Ai cho ngôn sứ quyền đó? Thẩm
quyền đó trực tiếp đến từ Thiên Chúa. Còn dân chúng, họ sẽ nghe và học những điều
Thiên Chúa dùng miệng các ngôn sứ để nói cho họ. Nếu vị ngôn sứ này lợi dụng
quyền năng của Thiên Chúa để củng cố vị trí của ông ta thì số phận ộng ta sẽ phải
chết. Nếu vị ngôn sứ nói về tương lai, mà các điều do miệng ông nói ra không có
chứng thực, thì ông đã nói theo ý riêng. Và những gì ông loan báo sẽ không được
Thiên Chúa chứng thực.
Như thế, các ngôn sứ có vai trò thật quan trọng
trong việc hình thành và phát triển dân Thiên Chúa. Trách nhiệm của ngôn sứ thật
năng nề. Họ phải trung thành và nói đúng theo ý Chúa muốn. Số phận của họ thuờng
rất bi thảm vì dám làm chứng cho sự thật và những kẻ có quyền thuờng không ưa họ.
Trong cùng một ý hướng đó, trình thuật Tin Mừng
tuần này trình bầy cho chúng ta nhìn thấy vai trò ngôn sứ của Đức Giêsu. Qua lời giảng dậy và các chứng cứ kèm theo
khiến chúng ta phải nhìn nhận rằng Triều đại và uy quyền của Thiên Chúa đã đến.
Chúng ta không đuợc biết nội dung lời giảng dậy của Đức Giêsu như thế nào. Tuy
nhiên, điều mà Thánh Mác-cô muốn nhắm đến là phản ứng và thái độ của dân chúng
trước lời giảng dậy của Người. Đức Giê-su đã không vịn vào bất cứ một truyền thống
nào để hỗ trợ cho lời rao giảng của mình. Chính Lời giảng và các chứng từ kèm
theo của Đức Giê-su khiến họ phải ngỡ ngàng và nhận ra trong Lời giảng dậy của
Người có uy quyền. Đó là điều mà Thánh sử đã xác định ngay từ đầu: “Thiên hạ sửng
sốt về Lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư.”
Và cũng trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta
được chứng kiến thêm cuộc đối thoại, đúng hơn là cuộc chiến bằng Lời của Đức
Giê-su và thần ô uế. Cuối cùng, Đức Giê-su đã chiến thắng, và qua đó Người đã
trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị ám. Hơn thế nữa, Người đã trả lại phẩm giá
và căn tính làm người cho ông. Điều này xuất phát từ tình yêu sáng tạo của
Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta biết rằng phẩm giá và căn tính của thân phận làm
người không khi nào bị thống trị bởi quyền lực sự dữ. Nhưng ngay lúc con người thiết
lập tương quan với Thiên Chúa là lúc chúng ta để cho quyền lực của Thiên Chúa trở
thành hiện thực và giải thoát mình. Phải chăng Đức Giê-su đã đến, đi vào nhà của
Người để xua đuổi thần ô uế, kẻ chiếm đóng ra khỏi xác thịt, và đem lại cho
thân xác chúng ta phẩm giá xứng đáng là Đền thờ của Thiên Chúa?
Anh chị em thân mến,
Qua bí tích rửa tội, chúng ta đã gia nhập vào
hàng ngũ của những người môn đệ; chúng ta là chi thể của Đức Kitô là tư tế, ngôn
sứ và vương đế đến cõi sống đời đời. Để chu toàn vai trò ngôn sứ, chúng ta phải
học để nói Lời Chúa, và cuộc sống mình cần phản ảnh sứ vụ của Đức Giê-su. Chúng ta vẫn biết rằng không bao giờ chúng
ta trở nên và giống Chúa hoàn toàn. Và không phải tất cả chúng ta đều có năng
quyền xua trừ ma quỷ hay các ảnh hưởng của nó. Chỉ một số người được trao ban
cho đặc ân, họ mới có năng quyền trên các tà thần. Tuy nhiên, nói chung, ai
trong chúng ta cũng có thể nói lời yêu thương, hành động vì lòng mến. Và đó
chính là những điều mới lạ, phi thường mà thế giới này đang cần.
Sau đây là một số chứng từ được ghi nhận để
anh chị em cùng suy nghĩ.
Trong nhà Dòng có một linh mục đã truyền giáo
cả đời bên Phi luật Tân. Khi đến tuổi về hưu, ngài được gọi về Úc để gần gũi
anh em và người thân trong gia đình. Vào những giờ rảnh rỗi, tôi thuờng đến hỏi
thăm và nghe ngài kể lại các truyện vui buồn trong cuộc đời truyền giáo. Có một
câu chuyện mà ngài vẫn thuờng kể đi kể lại mà không hề thấy chán.
Truyện kể như sau: Trong thời gian làm việc với
nhóm người thuộc dân tộc thiểu số -Dumagat- bên Phi luật Tân. Một lần kia,
trong lúc đi vào buôn làng. Ngài nghe thấy tiếng nói rất hung hăng và cử chỉ thật
dữ tợn của một chàng thanh niên thuộc buôn làng đó. Hình như anh này đã uống
quá chén cho nên không còn kềm chế được bản thân. Có một nhóm nhân viên công lực
đi ngang qua. Nhìn thấy cảnh tuợng như thế, họ tính dùng vũ lực để áp chế và còng
tay anh chàng say rượu này rồi đưa về đồn.
Ngay lúc đó, có một ông cụ đã từng dậy học
cho những người thiểu số tại làng đó đi ngang qua. Nghe đâu khi còn là thầy
giáo, ông đã dùng tình thương thay vì roi đòn để giáo dục lớp trẻ trong làng. Thấy
tình hình đó, ông thầy giáo già xin nhân viên cảnh sát cho phép ông gặp để
khuyên anh ta. Ông đến gần và choàng tay qua vai người đó rồi nhỏ nhẹ nói: “Jim,
đừng làm những chuyện quá trớn. Hãy điềm tĩnh và về nhà đi con.” Qua cử chỉ và
lời nói thật thân thương của ông thầy giáo đó, Jim có vẻ như đã biến thành một
người khác. Trông anh không còn giống như người say rượu nữa, miệng lí nhí nói câu
chào thầy. Sau đó, anh bình tĩnh đi về huớng mấy ông cảnh sát nói lời xin lỗi
vì đã làm huyên náo xóm làng, rồi đi về nhà trước các cặp mắt đầy ngạc nhiên của
các kẻ có quyền. Họ tự hỏi nhau rằng: “Ông thầy này là ai mà chỉ bằng một câu
nói đã có thể biến một người đang hung hăng trở nên thuần thục như vậy!”
Đó là truyện xẩy ra bên Phi.
Còn bên nhà chúng ta thì sao?
Anh chị em thân mến. Tôi tin rằng, có nhiều
người trong chúng ta đã làm được các việc giống như thế. Ở đây, tôi xin mượn lại
một sự kiện đã được cố giáo sư Nguyễn Ngọc Lan ghi trong “Chủ nhật hồng giữa mùa
tím.” Sau năm 1975, có một người bị bịnh
phong cùi ra ngồi ăn xin tại chợ Bến Thành. Anh ta xem ra có vẻ hơi hung hăng
và sẵn sàng cắn người nào không làm theo ý của anh. Không ai dám đến gần, vì sợ
nếu bị ông ta cắn thì có thể bị lây nhiễm bịnh phong cùi. Các nhân viên công an
cũng sợ. Thấy thế anh ta càng hung hăng hơn. Cho đến lúc họ dự định dùng vũ lực
để trói anh lại. Ngay lúc đó, có người đến báo cho bịnh xá chuyên trị bịnh da
liễu gần đó. Dì Hai Loan nhận đuợc tin báo, lập tức đi đến hiện truờng và nhận
ra anh là một trong những bịnh nhân do các dì coi sóc. Nhìn thấy anh, dì tiến đến
gần, với một giọng nhỏ nhẹ, cực kỳ dễ thương, dì nói: “Trời ơi! Tại sao con lại
ở đây. Các dì và những người bạn của con đang lo lắng cho con. Đứng dậy, rồi đi
với dì về nhà.” Không một chút phản kháng, anh lập tức đứng dậy và theo chân dì
Hai Loan đi về như một chú chiên con.” Các chú công an, những người qua đường
nhìn thấy hiện tượng đó bằng một cặp mắt ngạc nhiên và kính phục. Họ tự hỏi
nhau rằng: “Bà này là ai mà lại có uy quyền như thế!”
Các hiện tượng này làm tôi nhớ lại phản ứng của
dân thành Ca-pha-na-um đã dành cho Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thế
nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho
cả các thần ô uế và chúng phải tuân theo!”
Những người thấp cổ bé miệng, không có quyền
lực, bị ngược đãi và coi như thành phần lạc hậu, chậm tiến vì còn tin vào những
điều dị đoan: làm dấu trước khi ăn như nữ tu Ngọc Loan trong chứng từ nói trên,
lại trở nên vũ khí bén nhọn mà Thiên Chúa dùng để biến đổi người khác.
Trong khi đó, có những người đuợc tuyển chọn
vào hàng ngũ các đấng các bậc. Họ đã dùng các cách thức và phuơng tiện hiện đại
không để thông truyền Lời; nhưng lại tô điểm cho chính mình. Họ trình bầy quá
nhiều ‘points’, nhưng chẳng có chút ‘uy quyền – power, authority’ nào chứng thực
cho các ‘điểm-point’ mà họ đã trình bầy hết.
Ước vọng của dân chúng mọi thời đều giống
nhau. Họ uớc mong được nghe những lời giảng ích lợi cho cuộc sống, nhưng tốt
hơn vẫn cần có các chứng từ kèm theo để chứng thực những lời nói hay lời giảng
đó được xuất phát từ Chúa. Mới đây, tôi được nghe một linh mục thú nhận rằng bản
thân ông đã dùng Lời Chúa để hỗ trợ cho các ý tưởng và dự án của mình hơn là để
cho Lời Chúa hướng dẫn ông. Tôi cảm phục người bạn đồng nghiệp này, vì ông ta dám
nhìn nhận và nói sự thật của chính ông. Trong khi đó, cũng có đấng mỗi lần bước
lên bục giảng lại nói những lời diễu cợt để mua vui; thậm chí còn có bậc vị vọng
dùng Lời Chúa làm bàn đạp để ‘mài dũa’ dân chúng. Tuy nhiên không phải ai cũng
như thế. Trong một lần tĩnh tâm do cố Viện Phụ Vuơng đình Lâm hướng dẫn. Nội
dung các bài giảng và cách thức truyền đạt cuả ngài rất bình thường; nhưng lại đánh
động tôi bằng những dấu ấn khó quên. Lời giảng của Ngài dường như có sức mạnh của
lửa, nhằm sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh như tôi. Quả thật, rất khó để nhận định ai
là ngôn sứ thật, ai là ngôn sứ giả. Trong Chúa thì mọi sự đều có thể.
Khi ghi nhận các hiện tượng nói trên, tôi không
dám ‘bới lông tìm vết’ hay ‘vạch áo cho người xem lưng’. Thú thật chính bản thân
tôi cũng lâm vào hoàn cảnh tiêu cực nói trên; có nghĩa là thay vì để cho Lời Chúa
hướng dẫn thì lại hướng dẫn Lời Chúa. Đứng trước các hiện tượng nói trên, chúng
ta không nên bi quan quá. Nhưng hãy tin rằng Chúa có lối giáo dục của Ngài và
Ngài rất kiên nhẫn trong việc sửa dậy con người; còn tất cả chúng ta vẫn còn đang
đi trên con đường sám hối để được Chúa thành toàn.
Trở lại với ơn gọi ngôn sứ trong phận vụ của
người tín hữu, chúng ta xác tín rằng ai cũng đuợc mời gọi để cổ vũ, hỗ trợ và
thi hành sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta đã được trao ban. Vẫn biết là ngoài vai
trò ngôn sứ, còn nhiều ơn gọi và đặc sủng khác để xây dựng cộng đoàn dân Chúa.
Nhưng, hữu hiệu hơn cả vẫn là vai trò ngôn sứ; vì ngôn sứ nói Lời Chúa và khi
trung thực với sứ mạng, các ngôn sứ đều vượt lên trên mọi cơ cấu, qui chế và
các thứ quyền lực có thể làm cho Lời bị bóp nghẽn.
Chỉ có lời nói hay lời rao giảng đi kèm với hành
đông yêu thương mới chứng thực rằng chúng ta có uy quyền và uy quyền đó từ
Thiên Chúa. Ai cũng đuợc Chúa yêu thương. Đây là một hồng ân thật cao cả, một chân
lý luôn luôn mới và không bao giờ bị phai lạt. Qua lời nói kèm theo với các chứng
từ, chúng ta đuợc mời gọi làm cho người khác nhận ra điều khác lạ và mới mẻ để
tôn vinh Chúa. Chỉ có ai dám sống cho cái gì tồn tại mãi mới dẫn họ đến sự sống
đời đời. Nói khác đi, Sống Lời Chúa dẫn chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu. Cầu
xin được như thế, Amen!
No comments:
Post a Comment