*
Từ
độ tháng Giêng năm 1958, một thần-học-gia người Bỉ thuộc trường-phái Nijmegen, Hoà Lan tên là Edward Schillebeeckx, lâu nay hay gây tranh-luận
ở nhiều nơi. Ông là tu sĩ dòng Đa Minh sống ở tu-viện Albertinum thuộc Dòng thánh Albertô xây dựng vào cuối thập-niên 1920s.
Và tu-viện này, đã chính thức mở cửa cho mọi người bên ngoài đến viếng thăm vào
ngày 08/8/1932.
Một
lần nọ, có đến 120 anh em tu sĩ dòng Đa Minh từng sống ở nơi đó, nhưng nay chỉ
còn khoảng 30 vị, mà thôi. Kể từ năm 1942 đến 1945, viện-tu này bị quân-đội Đức
chiếm đóng nhiều ngày và các thày dòng ở đây đã phải tản mác, lưu lạc khắp chốn.
Vào
cuối cuộc chiến, viện-tu Albertinum ở
NijmegenHoà Lan, lại đã có thêm nhiều
sư-huynh và học-sinh đến trú-ngụ. Nhưng, vào thập niên 1980s trong khi các dòng
tu khắp nơi đều gặp khủng-hoảng nặng, thì một số công ốc trong tu-viện này được
hiến-tặng cho Đại học Công giáo Nijmegen làm
nơi học-tập.
Tôi
đến đó, để gặp thần-học-gia vĩ-đại là Gs
Edward Schillebeeckx. Tôi từng lưu lại ở đó rất nhiều lần, nhưng cũng không
còn nhớ được bao nhiều lần từng thảo-luận với vị học-giả nổi tiếng về nền thần-học
Công giáo này và về suy-nghĩ của ông về các vấn-đề thời-đại đang bốc cháy. Lâu
nay, tôi vẫn mang trong đầu nhiều ấn-tượng về phòng-ốc vĩ-đại; về chốn lặng-thinh
nơi tu-trì, cùng các lời kinh/kệ do các thày dòng ở đây vẫn cất tiếng và cả đến
khuôn mặt của những người bị ném tung ra ngoài biển cả đụng trận với gió bão.
Bởi,
vào độ trước, nơi đây cũng từng xảy ra nhiều trận cuồng-phong, bão táp khiến nhiều
vị được yêu cầu rời khỏi chốn đó, do bởi các ngài không còn hiểu/biết ý-nghĩa
cuộc sống tu-trì độc-thân, quyết lẩn/tránh những người sống ở ngoài đời hoặc những
vị bị trói buộc bởi cơ-cấu phòng-ốc đem lại từ nhiều thời trước đó, để rồi các
vị đành phải bóp bụng ra đi chọn nơi khác thích-hợp hơn hầu có được cuộc sống giản-đơn,
cần thiết.
Cảnh/vật
nơi đây đã khiến tôi nhớ lại hàng cây sồi vẫn đứng trụ qua nhiều đợt mưa gió,
coi đó như chuyện thường ngày xảy đến rất thường với đất nước từng tác-tạo cho
mình thứ gì đó, khá bí-nhiệm. Bí-ẩn/nhiệm-mầu ở đây đó, là các biểu-lộ gom gộp
từ tiếng/giọng chống-kháng đầy quả cảm, có kèm một chút ngang bướng chịu ảnh-hưởng
từ chủ-thuyết Calvin từng kế-thừa từ một quá-khứ nổi-trội.
Người
dân Hoà Lan nơi đây, không mấy trầm/lặng về bất cứ thứ gì xảy đến, nên đã thừa
sức tham-gia mọi chê-bai/phẩm-bình, và ít dành thì-giờ cho các chuyện tử-tế hoặc
các giao-tế nhân-sự. Những vị sống ở đây, luôn kiếm tìm lằn sáng chiếu-dọi mọi
sự việc, nên lúc nào cũng tu-duy lắng đọng và luôn mở rộng cửa ngõ đón chào mọi
lằn sáng từ mọi góc cạnh.
Tác-giả
Edward Schillebeeckx luôn mang đến
cho đất nước Hoà Lan của ông đôi điều mới mẻ, thêm vào đó là lề-lối giáo-dục
mang cung-cách bắt chụp được những điều đang gia-tăng theo kiểu cách khác nhau.
Nhưng, với thời-gian, đường-lối giáo-dục này lại cũng gây ngờ-vực không ít, nên
đã có suy-nghĩ chín-chắn nhằm dẫn thẳng về phía trước bằng các mẫu mã thông-thường.
Trong
căn phòng đầy những sách, ông tiếp đón tôi hàng giờ nói không dứt về cuộc sống
sinh-động của chính ông; và, về thời thơ trẻ đã có rắc-rối khi ông buộc phải quyết-định
xem có nên chọn cuộc sống tu-trì hay không. Cả đến môn nhân-văn ông nghiên-cứu
học hỏi, cả đến môn triết-lý cũng như thần-học cho chí thời dạy học ở đại-học-đường
Nijmegen nữa.
Quả
là, cuộc sống của ông đầy quả-cảm, qua chuỗi ngày dài chịu-đựng những khích-bác
chống lại tính cởi mở của ông, khi ông sinh-hoạt dạy-dỗ học-viên tu-sĩ của Dòng
mình. Lại đến giai-đoạn nghiên-cứu/khảo-sát, tiến-trình giao-dịch với Rôma, kể
cả những đêm thức trắng nghiền-ngẫm Kinh Sách và Thánh-truyền; đến việc đeo đuổi
tìm-hiểu các tác-giả cũ/mới, thời cận-đại hầu đáp trả những câu-hỏi mà mọi người
viện-dẫn, như: Thái-độ im-lặng của Thiên-Chúa, như tình-huống say-mê hiện-hữu
Chúa ban một cách nhưng-không, vô điều-kiện.
Vào
những lúc được hân-hạnh mặt-đối-mặt với tác-giả, là thần-học-gia lỗi-lạc
phi-thường có đầu óc/kiến-thức rộng/mở về thần-học mà không phải ai cũng hiểu
thấu mọi chi tiết.
Chuyện
trò với ông, tôi có cảm-giác như ông đã gặp tôi nhiều lần trên đường phố, hệt
như gặp lúc có người hỏi đường hỏi lối để đi tìm nhà vậy. Có những lúc, hệt như
thể ông và tôi đang ngồi ở quán cà-phê hoặc trên tàu biển đi đây đó, chuyện trò
không dứt.
Tôi
vẫn để tai nghe ông nói chuyện hàng giờ, chẳng khi nào dám cắt ngang câu chuyện
đang hồi hứng-chí, cứ để ông kể mãi hết chuyện đời mình, từ luồng tư-tưởng cho
đến những giao-tiếp bạn-bè hoặc các xung-khắc xảy đến trong đời ông. Cứ thế,
tôi vẫn để ông nói suốt về thời quá khứ, cũng như hiện-tại với ánh mắt hướng về
ngày sau hết được gọi là “cánh-chung-luận”, về những khám-phá ra cung-cách cho
thấy sự cao cả nơi lòng thương xót của Chúa trong quá-trình giao-tiếp với mọi
người, nam và nữ.
Ít
khi nào tôi đặt câu hỏi, chỉ khi nào thấy thật cần thiết để nhắc ông rằng tôi
đang đóng vai người bộ-hành ở ngoài đường hỏi han ông đường đi nước bước, mỗi
thế thôi. Và, đôi lúc tôi cũng hỏi quan-niệm của ông về công-cuộc Chúa tạo-dựng,
về Đức Giêsu thành Nadarét Đấng công-bố nhiều hệ-luận, về Đức Kitô là Đấng đầu
tiên kể về lối sống rất mới mẻ, và về thói quen mới tạo được.
Tôi
cũng không quên hỏi về Chúa Thánh Linh là Đấng tạo hứng sống cho một Giáo-hội
luôn cần đổi mới, bởi tình Ngài thương yêu-Giáo-hội sẽ không bao giờ cạn-kiệt.
Tôi
thật chẳng muốn có câu hồi-đáp từ thần-học-gia Edward Schillebeeckx cho hàng
ngàn câu hỏi của nam-nhân lẫn nữ phụ ở ngoài đường cứ hỏi nhiều thứ và nhiều sự
mà chỉ dám nói đến nghiên-cứu hữu-lý, đến trực-giác, sững-sờ cả nguồn thơ lai
láng, bởi lẽ tác-giả Schillebeeckx lại cũng là nhà thơ, vốn từng bày tỏ ý/lời đầy
thơ trong cuốn thứ ba ông bàn-luận về Đức Kitô, như một môn-học.
Tôi
cũng không nhận ra được biệt-tài thuyết-trình hoặc những điều kỳ-lạ ông có; cũng
chẳng thấy được nơi ông chút đắng cay/ngậm ngùi nào khi ông đề-cập đến Giáo-hội
bị cơ-chế-hoá từng đưa ông vào thế khó xử.
Vào
dạo ấy, tôi chỉ muốn kiếm tìm đôi điều chứng-tỏ nét tư-riêng/độc-đáo của một thần-học-gia
chuyên-biệt từng nói cho mọi người biết về Đức
Giêsu, Đấng Kitô và Giáo-hội đề-cập riêng-biệt trong ba cuốn sách ông viết
về Kitô-học.
Ông
kể cho tôi nghe câu chuyện về chính ông, đôi khi bằng giọng nói rắn chắc, có
lúc hơi trầm/buồn, rất thận-trọng khi bộc-lộ tâm-can là những thứ đã làm ông rối-rắm,
suốt một thời.
Trong
lúc kể, hầu như đọc từng chữ, đa-phần bằng tiếng Pháp, đôi lúc ông nói bằng tiếng
Đức và tiếng Anh, tác-giả Schillebeeckx
đã mô-tả tính phong-phú trong công-cuộc nghiên-cứu ông hoạc-định.
Thế
nhưng, tác-giả Edward Schillebeeckx cũng
đã tham-gia vào cuộc sống tu-trì vào các lễ mừng ngày của Chúa bằng các bài
chia-sẻ về nhiều chủ-đề khác nhau, cả những buổi tối anh em bầu bạn quây quần
bên bàn tiệc hoặc những ngày từ thị thành trở về quê xa xôi, lúc nhàn rỗi chuyện
trò với nhau bằng vài ba câu pha trò để vui sống, những lúc bên nhau chung hưởng
ly bia, hoặc bên tách rượu vang; hoặc các dạ-tiệc đầy hoa trái thết-đãi nhau
không sót một ai.
Thần-học-gia
và các nhà chú-giải vẫn còn nói nhiều về tác-giả có bộ mặt trẻ thơ không
thích-nghi được với nhiều người nhưng sự minh-mẫn ở nơi ông lại dấy lên nguồn sống
xoáy mạnh tâm can nhiều người khiến họ không làm gì được ngoài chuyện tha-thứ
cho ông mà thôi.
Chính
đấy là Schillebeecksx vốn dĩ vào
chính lễ thánh Đôminicô năm 1989, tưởng nhớ ngày lập Dòng Thuyết-Giảng, là người
đã viết lời đầu trong cuốn thứ ba ông bàn về Kitô-học khi bảo rằng: “Tôi hy-vọng là trong số những người đọc
sách của tôi sẽ có vị thuộc giới-chức cầm-quyền trong Giáo-hội, và cả những vị
sẽ nghe lời thú-nhận niềm tin của một nhà thần-học đã bỏ cả đời mình chẳng có
gì ngoài việc kiếm tìm Thiên Chúa có nghĩa ý-nghĩa gì đối với mọi người nam
cũng như nữ, một cách chưa dứt-khoát và có hơi lắp bắp, rất ngập-ngừng.
Chính
đây là Schillebeeckx của độc-giả sẽ gặp
gỡ khi đọc các sách này và cả đến những bài viết cho đến nay chưa được in ấn,
mãi sau này.
(còn
tiếp)
Lm Edward
Schillebecckx chuyện trò với Francesco Strazzari
Mai
Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment