Monday 4 April 2016

Gs Geza Vermes: Diện mạo Đức GIêsu: Các thư viết vào thời sau Phaolô (bài 33)






Thư Thứ nhất Phêrô, là thư gửi đến cộng-đoạn dân Chúa đang bị bách-hại, tức: bức thư mà hầu hết các nhà chú-giải Tân Ước đều công-nhận là thư ẩn-danh. Nói thế có nghĩa: “đây không là công-trình của vị tông-đồ mang tên Simôn Phêrô”, nào hết. Bởi, mãi đến đầu thế-kỷ thứ nhất sau Công-nguyên, các vị chóp-bu trong Hội-thánh mới buộc mọi người phải công-nhận tác-giả thư này, là do tông-đồ Phêrô tạo nên. Dù đây chỉ là chuyện giả-tưởng, nhưng Hội-thánh vẫn buộc phải làm thế, nếu muốn cho văn-bản được hiểu là cũng do tác-giả đích-thực là tông-đồ như Thư của ông Gioan, Thư Giuđa và các thư nói là của ông Phêrô hoặc của ông Giacôbê.

Nhưng, Thư Thứ Nhất Phêrô viết bằng tiếng Hy-Lạp, lại đẩy lùi “trò” nghi-vấn này đi nơi khác. Bởi, thật là chuyện tốt-lành nếu ta coi đó là công-trình của “Ông dân chài bình-dị và chả bao giờ được hấp-thụ nền giáo-dục nào hết” vốn là người Galilê quê-mùa/chân-chất như sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 4 câu 13 lại dẫn-chứng như sau:

“Thấy sự dạn-dĩ của ông Phêrô và Gioan và đã để ý rằng các ông là những người vô-học-thức và thuộc đám lê-dân, nên họ kinh-ngạc và nhận ra là các ông trước kia đã ở với Đức Giêsu.”


Mãi về sau, mọi người mới nhận ra, là: việc bách-hại vốn dĩ được cho là xảy ra vào thời-kỳ ghi ở trong sách như thế, lại không hề xảy ra hồi trước triều-đại hoàng-đế Đômitian trị-vì từ năm 81 đến năm 96 sau Công Nguyên. Mà, theo truyền-thống Giáo-hội, thì: đến thời đó, tông-đồ Simôn Phêrô (còn gọi là Kêpha) không còn sống. Như mọi người hiểu, thì: vị tông-đồ cao-cả này đã tử-đạo vào thời hoàng-đế Nêrô tung-hoành bách-hại Đạo Chúa, tức: xảy ra trước niên-biểu thứ 68, sau Công nguyên.


Thư Thứ Nhất Phêrô lặp lại đạo-lý của ông Phaolô, về ơn cứu-độ do máu-huyết Đức Kitô đổ ra mà có, như được kể ở đoạn 1 câu 19 sau đây:

“Những người được Thiên-Chúa Cha biết trước và kén chọn, những người được Thần-Khí thánh-hoá để vâng-phục Đức Giêsu Kitô và được máu huyết Ngài tưới rảy. Chúc anh em được đầy tràn ân-sủng và bình-an.”

“Nhưng anh em đã được cứu nhờ bửu-huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.”


Và, đoạn thư đây lại đã vang-vọng tư-tưởng của ông Phaolô, về sự hiện-hữu có trước bằng một xác-định, rằng: Đức Kitô được tiền-định, cả vào lúc thế-giới/vũ-trụ được tạo-dựng; nhưng, trưng-dẫn vào thời thế-tận, hệt như đoạn 1 câu 20 từng quả-quyết:


“Đấng đã được tiền-định từ trước tạo-thiên lập-địa, và đã tỏ-hiện vào thời cánh-chung vì anh em, là những kẻ nhờ Ngài mà đã tin vào Thiên-Chúa…”

Thư Thứ Nhất Phêrô, lại cũng ghi thêm một chi-tiết khá đặc-biệt cho câu truyện về Đức Giêsu, một nửa theo cung-cách huyền-thoại, còn nửa kia mang tính diễn-giải, đem về hành-trình rất “thần-khí” của Đức Kitô-chịu-đóng-đinh-trên-thập-tự, hầu chuyển đến thế-giới thầm-lặng mà giảng-rao cho “thần-khí bị giam nơi tù đày”, từng rên-xiết trong đó kể từ ngày có nạn hồng-thủy thời ông Nôê!

Thành thử, cũng giống như truyện thần-thoại Orphê của Hy-Lạp, Đức Kitô cũng đã ghé Hades. Vấn-đề, là hỏi rằng: Do đâu mà có ý-tưởng ngộ-nghĩnh đến thế? Chương 6 sách Sáng Thế ở Kinh thánh và các truyền-thống chú-giải của người theo Do-thái-giáo có liên-quan đến sự việc này, đã định rằng: tính độc-hại nói chung của cư-dân của trái đất vốn dĩ bị trừng-phạt bằng cơn đại hồng-thủy là do các thiên-thần gẫy cánh tạo ra, hoặc “các người con của Thiên-Chúa” và đám hậu-duệ “phân-nửa-là-người” gọi là “đám khổng-lồ chống Zeus” đúc tạo nên.
           
Tuy nhiên, Đấng thánh-thiêng công-chính đã không nỡ triệt-hạ thế-hệ tệ-lậu này mà lại không ban cho họ cơ-hội chót để tu-sửa đường-lối họ noi theo. Thành thử, Thiên-Chúa mới chỉ-định ông Nôê để giảng-rao hoặc làm “sứ-giả công-chính” lôi kéo mọi người quay về hồi-hướng, như Thư Thứ Hai Phêrô đoạn 2 câu 5 còn ghi rõ:


“Và nếu Ngài đã không dung cho thế-gian cổ-lỗ, nhưng là gìn giữ tám người, có Nôê là một, kẻ rao-giảng sự công-chính, mà kéo Hồng-Thủy xuống trên thế-giới của phường vô-đạo;”


Tuy vậy, ngoại trừ gia-đình ông Nôêra, nếu chẳng ai chịu lắng tai nghe điều được giảng/rao, thì họ sẽ bị tru-diệt trừ có ông Nôê và gia-đình ông cùng với 3 người con trai và 3 con-dâu là những người đã vào mạn tàu, thôi. Dù sao thì, bằng vào lời Phúc-Âm Đức Kitô đem đến cho họ trước khi Ngài trỗi dậy, các thần-linh bị giam-cầm đã được ban cho cơ-hội nữa để sám-hối, như Thư Thứ Nhất Phêrô đoạn 3 câu 18-21 và đoạn 4 câu 6, từng ghi lại:

“Bởi chưng, Đức Kitô đã chết một lần vì tội lỗi, Đấng công-chính vì những kẻ bất-nhân, để đem ta đến cùng Thiên-Chúa, Ngài đã bị giết chết về xác thịt, nhưng đã được tác-sinh về Thần-Khí.

Nhân cơ-hội, Ngài đã đi rao-giảng cho các thần-linh trong ngục, cho những người bất-phục xưa kia khi lòng đại-lượng của Thiên-Chúa chờ-đợi vào những ngày tàu Nôê đang đóng, trong đó có ít người, tám người cả thảy, đã được cứu-thoát, độ qua nhờ nước. Nước ấy, bây giờ cứu cả anh em, nhưng như sự thật đối với bóng xưa, tức là thanh-tẩy: không phải là khử-trừ bợn nhơ xác thịt, mà là khẩn xin lên Thiên-Chúa để được một lương-tâm thiện-hảo, nhờ sự sống lại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”

Và, đoạn thư sau đó, có nói:

“Và vì thế mà Tin Mừng đã được loan-báo cho cả những kẻ chết: cho nên theo loài người, thì họ bị phán-xét về xác thịt; nhưng theo Thiên-Chúa, thì họ được sống về thần-khí.”

Câu truyện lạ kỳ về chuyến ghé viếng của Đức Giêsu với thế-giới không ngờ tới đã đi vào niềm tin của tín-hữu Đạo Chúa ngang qua hình-thức kể lể theo kiểu Tây Phương ở Kinh Tin-Kính của các Tông-đồ qua đó giòng tư-tưởng viết bằng tiếng La-tinh lại chạy chữ như thể bảo: “crucifixus, mortuus et sepultus, descendit ad infera”, tức: Ngài đã chịu đóng đinh, chết đi và được chôn cất, như thế là Ngài đã xuống tới địa-ngục.

 Tuy nhiên, dù Thư Thứ Nhất Phêrô có nói rõ đến thế nào đi nữa, thì: các nhà thần-học vẫn khó có được ý-tưởng bảo rằng Đức Kitô đã giải-thoát các linh-hồn khỏi cảnh hoả-hào, địa-ngục. Thế nên, các vị này mới cải-biến chữ ngục-tù nóng-cháy thành một chốn/miền rất trung-hoà gọi là luyện-tội, tại đó các thánh ở thời Cựu-Ước, các tổ-phụ và tiên-tri/ngôn-sứ đều bị đày-ải như thế mãi cho đến khi có Tin Mừng về việc họ được cứu-rỗi do Đức Kitô loan-báo.


Thư Thứ Hai Phêrô, khác xa hẳn công việc của vị tông-đồ kỳ-cựu của Đức Giêsu, có lẽ là văn-bản mới đây nhất ở Tân-Ước, có niên-biểu viết vào năm 125 sau Công nguyên, nếu không muốn nói là chậm hơn nữa. Phân-tích về văn-phong/thể-loại cho thấy là: Thư này được tác-tạo sau Thư Giuđa (là thư viết vào niên-biểu thứ 100 sau Công nguyên) qua đó rõ ràng là thư này chịu ảnh-hưởng cách nặng-nề.

Thêm nữa, tài-liệu đây chứng-thực là đã làm tỉnh-ngộ một cách đáng kể nơi hàng-ngũ các kẻ tin khi thấy việc Đức Kitô quang-lâm cứ bị câu giờ, trì-trệ. Chính tác-giả lá Thư nói ở đây đã không kỳ-vọng chuyện mình được hân-hạnh chứng-kiến việc Chúa đến lại lần thứ hai này, hệt như Thứ Thứ Hai Phêrô đoạn 1 câu 13-15 đã chuyển-tải những điều sau đây:

“Thiết nghĩ: tôi phải nhắc nhở để thức tỉnh anh em, đó là điều phải lẽ, vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều này, như Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cũng đã tỏ cho tôi biết. Nhưng tôi sẽ cố gắng, để trong mọi trường hợp, sau khi tôi ra đi, anh em có thể nhớ lại các điều ấy.”


Ám-chỉ về lời giảng-dạy sai-sót cho đám đông như thế gợi ý cho ta biết là: vào lúc có phong-trào Ngộ-đạo đang tăng-trưởng đã kéo dài mãi đến thế-kỷ thứ hai. Cuối cùng thì, các thư do ông Phaolô viết, lại đã tạo cốt-lõi văn-chương thần-học được qui là “Kinh thánh” như có nói trong Thư ở đoạn 3 câu 15-16 như sau:


“Và anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên-nhẫn chính là để anh em được cứu-độ, như ông Phaolô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh em, theo ơn khôn-ngoan Thiên-Chúa đã ban cho ông. Ông cũng nói như vậy trong tất cả các thư của ông, khi bàn đến các vấn-đề này. Trong các thư ấy, có những chỗ khó hiểu; những chỗ ấy, cũng như những chỗ khác trong Kinh-Thánh, bị những kẻ vô học và nông-nổi xuyên-tạc, khiến chúng phải chuốc lấy hoạ diệt-vong.”  


Và, trong tất cả các sách khác ở Tân-Ước, và ngay trong Đạo Chúa vào thời kỳ sau này, chỉ mỗi Cựu-Ước là sách có thể mang danh một Giao-ước như thế, thôi.

Thư thứ Hai Phêrô không châm thêm điều gì cho hình-ảnh của Đức Kitô ở Tân Ước, hết. Tính-cách tiêu-cực ở trong thư này chỉ cốt làm cho mọi người hiểu dễ hơn về diện-mạo có đổi thay của Đức Giêsu như tạt một gáo nước lạnh lên trên đó. Và nói một cách rất thực-tế, thì: việc này làm dập tắt lớp than hồng khẩn-trương của cánh-chung đến độ tạo đặc-trưng/đặc-thù cho đạo-giáo của bậc thày người Galilê.

Tác-giả thư này, viết hàng trăm năm sau ngày Đức Giêsu quá-vãng, cũng thuyết-phục một mạo-hiểm đi vào vùng trời dễ trượt ngã này do bởi các ý-kiến đầy nghi-ngờ của tín-hữu Đạo Chúa vốn dĩ luôn châm chọc về thời của ông, như lời lẽ trong đoạn 3 câu 4 từng dõng dạc tuyên-bố:


“Họ nói: "Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành."


Nhân-vật Phêrô giả-mạo là tác-giả đã đưa ra câu trả lời kép để thoái-thác, rằng: một mặt thì, thời-gian tính theo quan-điểm của Thiên-Chúa khác với suy-tư của loài người; và mặt khác: việc Chúa quang-lâm bị trì-trệ phải được coi như một ân-huệ là ta có đủ thời-gian để xa lánh mọi lỗi/tội. Hệt như lời lẽ trong thư này ở đoạn 3 câu 8-10 từng quả quyết:

“Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm-trễ thực-hiện lời hứa, như có kẻ cho là Ngài chậm-trễ. Kỳ thực, Ngài kiên-nhẫn đối với anh em, vì Ngài không muốn cho ai phải diệt-vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn-năn hối-cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp-đổ, ngũ-hành bốc cháy tiêu-tan, mặt đất và các công-trình trên đó sẽ bị thiêu-huỷ.” 


Việc chỉnh-sửa, giống như lập-luận tranh-cãi được bình-luận-gia Qumran bàn việc tiên-tri Habacúc nói đến sự rẽ-chia do đợi chờ ngày Chúa quang-lâm. Bình-luận, xảy ra vào thế-kỷ kế-tiếp sau khi Giáo-phái ở Biển Chết quả-quyết về sự đúng-đắn của Bậc Thày. Diễn-giải lời tiên-tri Habacúc nói ở đoạn 2 câu 3, lập trường của Giáo-phái Biển Chết đã bảo rằng: “Giả như đoạn kết-cuộc, đòi ta phải nán lại mà đợi chờ, hãy chờ đợi việc Chúa đến lại thêm nữa; bởi, chắc-chắn Ngài sẽ làm thế và cũng không chẫm-trễ lắm đâu.

Bình-luận-gia thuộc Giáo-phái Biển Chết có viết ở 1QpHab đoạn 7 câu 9-14, như sau:


“Một khi đã luận-giải thế rồi, điều quan-ngại là về những người của sự thật vẫn tuân-giữ Luật-lệ sẽ không dùng ta để làm chậm lại tiến-trình phục-vụ sự thật khi thời sau hết được kéo dài ngày. Bởi, tất cả mọi thời của Thiên-Chúa thảy đạt tới điểm kết thúc đã định-hình vì Ngài quyết làm thế đối với họ theo bí-nhiệm không ngoan của Ngài”              

Việc đợi chờ một cánh-chung kéo quá dài ngày không thể nào kéo dài mãi đối với giới lân-cận của cộng-đoàn tuân-giữ Đạo, dù có là nhóm /phái Essênê hoặc Giáo-hội thuộc Đạo Chúa cũng thế. Lòng sốt-sắng đợi chờ Chúa quang-lâm đã cho phép ta có được sự chắc-chắn về cơ-chế, hoặc như Alfred Loisy nửa dí-dỏm nửa nghiêm-túc bảo rằng: “Các tín-hữu Đạo Chúa thời đầu vẫn kỳ-vọng là Đức Kitô sẽ quang lâm đến lại, thế nhưng đó lại là Hội thánh, thay vào đó.”


Thư Giuđa lại cũng tạo nhiều mối đau đầu cho các vị diễn-giải thuộc tín-hữu Đức Kitô kể từ thời Cải-Cách cho đến hôm nay. Ông Giacôbê, khi Kinh Sách nói đến “đầy-tớ Chúa và cũng là tôi-trung của Đức Giêsu Kitô” thì: vị tôi-tớ ấy thường được coi là Giacôbê-Hậu, tức “người em ruột của Đức Chúa”, là vị tông-đồ Do-thái-giáo và Đạo-Chúa từng lĩnh-đạo cộng-đoàn, hiểu theo ý của sách Công-vụ Tông-đồ.      

Đối với phần lớn các chuyên-gia chú-giải, tên ông Giacôbê đây là một tên giả ký vào thư có niên-biểu xảy ra vào cuối thế-kỷ thứ nhất, sau Công-nguyên. Nhóm giáo-phái Biển Chết từ-chối không gán-ghép tên tác-giả cho người em ruột của Đức Giêsu là dựa trên bản-văn tiếng Hy-Lạp có tác-giả hẳn-hòi và cũng dựa vào sự việc bức thư này không đả-động gì đến đòi-hỏi tục cắt-bì và việc tuân-giữ nghi-thức Do-thái-giáo với tín-hữu Đạo Chúa, dấu-hiệu của ông Giacôbê và nhóm chủ-trương “cắt bì” theo phe ông Phaolô và giới cận thân của ông.

Thực ra, tác-giả thư này chỉ nhấn mạnh lên ý-niệm đạo-đức ở Mười điều giới lệnh, từng diễn-tả như luật thông thoáng được Đức Chúa-là-Vua ban-bố, như thư Giacôbê đoạn 2 câu 8-13, có nói:

“Đã hẳn, anh em làm điều tốt, nếu anh em chu-toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân-cận như chính mình. Nhưng nếu anh em đối xử thiên-tư, thì anh em phạm một tội và bị Lề-Luật kết-án là kẻ vi-phạm.

Quả thế, ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa-ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm. Thật vậy, Đấng đã phán: Ngươi không được ngoại tình, cũng đã phán: Ngươi không được giết người. Vậy nếu bạn không ngoại tình, nhưng lại giết người, thì bạn cũng thành kẻ vi-phạm Lề Luật.

Anh em hãy nói-năng và hành-động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do. Vì Thiên-Chúa không thương-xót khi xét xử kẻ không biết thương-xót. Còn ai thương-xót, thì chẳng quan-tâm đến việc xét xử.”  


Dù, thư đây đâ có ra như thế, tức: như thể có xuất-xứ từ phần ba cuối thế kỷ thứ nhất, sau Công-nguyên thì tốt nhất vẫn có thể được gán/ghép một cách gián-tiếp cho ông Giacôbê là đấng bậc bị ném đá vào năm 62 sau Công nguyên.

Mặc dù, nội-dung thư này không cho biết bất cứ thông-tin nào về chính Đức Giêsu, dù vậy vẫn là thư đáng kể để ta tìm hiểu lý do, bởi vì thư đây tạo cầu-nối liên-kết đạo-lý của ông Gioan Tin Mừng với ông Phaolô được đề ra cho kẻ tin là dân ngoại đối với Đạo Chúa có tính Do-thái-giáo ở sách Công-vụ Tông-đồ và ở Tin Mừng Nhất Lãm, nữa.

Cũng cần ghi chú thêm ở đây, là thông-điệp ở Thư Giacôbê hoàn toàn tập-trung vào Thiên-Chúa, trong khi đó Đức Giêsu chỉ đứng ở hậu-trường, mà thôi. Các lời cầu-nguyện được hướng thẳng về Thiên-Chúa-là-Cha, Ngài là Đấng chúc phúc cho mọi người và Ngài là Đấng được kẻ tin tự mình dâng mọi sự lên Ngài. Thiên-Chúa của ông Giacôbê lại mang “Danh tánh đáng trọng” của Thiên-Chúa ở Do-thái-giáo, như Thư này còn đề-cập rất rõ ở đoạn 2 câu 7 và ở Cảo Bản Biển Chết với chương/đoạn 1QS 6: 27), như sau:


“Chẳng phải họ xúc phạm đến Danh Thánh cao đẹp mà anh em được mang đó sao?”        


Ngài Thiên-Chúa của Do-thái-giáo. Việc thờ phụng thanh-khiết và không vết nhơ ngang qua các tự-vựng đạo-đức viết trong Thư này, như: việc thăm viếng kẻ mồ-côi và các bà goá đang sầu buồn, và sống cuộc sống tốt lành đầy khôn-ngoan, nhu-mì, hiền-hậu, như Thư này viết ở đoạn 1 câu 27 và đoạn 3 câu 13, sau đây:

“Có lòng đạo-đức tinh-tuyền và không tỳ-ố trước mặt Thiên-Chúa Cha, là thăm viếng cô-nhi quả-phụ lâm cảnh gian-truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian…”

Và, đoạn khác:

“Trong anh em, ai là người khôn-ngoan hiểu-biết? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng-tỏ rằng: những hành-động của họ phát-xuất từ lòng hiền-hậu và đức khôn-ngoan.“  


Tất cả những điều như thế, được thực-hiện trong khuôn-khổ “niềm tin của Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta, Đức Chúa đầy quang-vinh” và lời lẽ trong thư được tăng-trọng do niềm kỳ-vọng vào ngày quang-lâm đang kéo dài ngày, như Thư đây diễn-tả ở đoạn 5 câu 7-9, sau đây:

“Thưa anh em, xin anh em cứ kiên-nhẫn cho tới ngày Chúa quang-lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên-nhẫn chờ-đợi cho đất trổ-sinh hoa màu quý-giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên-nhẫn và bền-tâm vững-chí, vì ngày Chúa quang-lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn-nàn kêu-trách lẫn nhau, để khỏi bị xét-xử. Kìa Vị Thẩm-Phán đang đứng ngoài cửa.”


Chữa lành người tật/bệnh bằng dầu xức (Mc 6: 13) nhân danh Đức Giêsu kèm theo việc tha-thứ mọi tội/lỗi như có nói ở Thư Giacôbê đoạn 5 câu 13-15, sau đây:


“Ai trong anh em đau-khổ ư? Người ấy hãy cầu-nguyện. Ai vui-vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau-yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ-mục của Hội-Thánh đến; họ sẽ cầu-nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân-danh Chúa. Lời cầu-nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ-tha.”

Lời lẽ đây trưng-diễn lòng sốt-sắng/tốt lành bằng lời cầu rất hữu-hiệu như công việc tạo sự lạ cho người nguyện-cầu. Đạo Chúa mang tính chất Do-thái-giáo đây, chính tiên-tri Elya là người đề-xuất như tấm gương để mọi người chiêm-ngưỡng, tựa hồ lời thư Giacôbê đã nhận-định ở đoạn 5 câu 17-18 sau đây:


“Ông Êlia xưa cũng là người cùng chung một thân-phận như chúng ta; ông đã tha-thiết cầu xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống và đất đã trổ-sinh hoa trái.”


Và ta sẽ còn thấy nhiều hơn nữa, là: ông Giacôbê từng tạo âm-vang điều mà các tín-hữu Đạo-Chúa mang tính-chất Do-thái-giáo có nói ở sách Công Vụ Tông Đồ và vượt lên họ, còn thấy ở sách Tin Mừng Nhất Lãm nữa.

Thật cũng lạ-kỳ, là: Thư Giacôbê luôn làm cho các nhà thần-học không thoải-mái chút nào. Có vị gần như tuyệt-vọng, có vị lại đã tranh-luận bảo rằng Thư ấy thật sự là tài-liệu Do-thái-giáo được tái-bản sau này và làm choá mắt các vị biên-tập theo Đạo Chúa. Cái gai chính-yếu vốn dĩ đâm vào da thịt các nhà chú-giải là lối công-kích kịch-liệt của ông Giacôbê chống lại một trong các giáo-huấn chính-yếu của ông Phaolô, mặc dù tác-giả đây không nêu rõ tên ông Phaolô ra mặt.

Ở đây nữa, và điều này thực-sự cho thấy mức-độ không thoải-mái đến thế nào, phát-ngôn-viên Giáo-hội cận-đại từng nỗ-lực một cách không-hỵ vọng làm nhẹ bớt vấn-đề nêu ra, là: những người chỉ-trích tác-giả được chĩa thẳng về văn-bản méo mó về thần-học của ông Phaolô, do nhóm dị-giáo đưa ra, chứ không có ý chống lại giáo-huấn chân-phương của ông ta. Chẳng hạn như, việc chỉnh-sửa là do lòng tin mà ra, chứ không phải do việc thi-hành Lề-luật mà có.

Thế nhưng, nếu ta nhìn vào luận-cứ do tác-giả Giacôbê viết ở đoạn 2 câu 14-24, có nói rằng:

“Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành-động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?

Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế, và chúng run sợ." Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không? Ông Abraham tổ-phụ chúng ta, đã chẳng được nên công chính nhờ hành động, khi ông hiến dâng con mình là Isaác trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành-động của ông, và nhờ hành-động mà đức tin nên hoàn hảo. Như thế ứng-nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông Abraham tin Thiên-Chúa, và vì thế Thiên-Chúa kể ông là người công-chính và ông được gọi là bạn của Thiên-Chúa.”

Anh em thấy đó, nhờ hành-động mà con người được nên công-chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. Rakháp, cô gái điếm cũng vậy: há chẳng phải nhờ hành-động mà đã được nên công-chính, vì đã đón-tiếp các sứ-giả và đưa họ đi lối khác sao? Thật thế, một thân-xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành-động là đức tin chết.”

Trong quá-khứ, chính ông Luther đã thấy bức thư kỳ-quặc này không thể chấp-nhận  được nhất là khi đưa ra giáo-huấn của mình. Ngày nay, nhiều Học-giả Kinh-thánh thuộc  Đạo Chúa không thể nuốt trôi ý-tưởng về cuộc xung-đột mở rộng ở đạo-lý trongSách thánh giữa hai vị tông-đồ của Đức Kitô. Thế nhưng, nay ta biết được từ ông Phaolô rằng cuộc xung-đột với nhóm người quyết biến mọi sự giống Do-thái-giáo, tức “phe/nhóm chủ-trương cắt bì” khi trước đã quá ngây thơ và ta sẽ còn học-hỏi nhiều về chuyện này khi cứu-xét vấn-đề về giai-đoạn khởi-đầu của Giáo-Hội Đức Kitô qua sách Công-Vụ Tông-Đồ.        

                                                                                                            (xem tiếp chương 5)

Gs Geza Vermes biên-soạn,
Mai Tá lược dịch

No comments: