Chương 5
Đức Giêsu
của sách Công-vụ
Tông-đồ
(bài 34)
Ngôn-sứ,
Đức Chúa,
và Đức Giêsu Kitô
Nếu ta xa rời tầm
nhìn đầy bí-ẩn, quyết bảo rằng: Đức Kitô là Đức Chúa, và tách-bạch khỏi bi-kịch
huyền-nhiệm do ông Phaolô tạo hình ảnh Đức Giêsu ở truyền-thống trong Đạo, và thay
vào đó, kiếm tìm đường-lối nào khác của đấng bậc từng quan-niệm Đức Giêsu là
Giêsu-chịu-đóng-đinh-trên-thập-tự, hẳn ta sẽ bắt gặp một đổi-thay có tầm-kích của
một triều-cường, chưa từng thấy.
Nay, thay vì nghiên-cứu
về “Người Con Vĩnh-Cửu” ở Tin Mừng của ông Gioan theo cách Do-thái-giáo vào thế-kỷ
đầu; hoặc thay vì xét xem Đấng Cứu-chuộc đã chết-đi-và-trỗi-dậy thế nào ngõ hầu
Ngài có thể cứu-vớt và sinh-động-hoá gian trần, tưởng cũng nên vào với sách
Công Vụ trong đó có các chương/đoạn diễn-tả Vị Ngôn-sứ người-Galilê được Thiên-Chúa
cất-nhắc thành Thần-Linh Thánh-Ái Kitô Giêsu, sau khi trỗi-vực Ngài dậy khỏi nỗi
chết, rất tốt đẹp.
Nay, cũng nên dẫn-nhập
mà bảo rằng: sách Công Vụ đã hoàn-tất nửa phần về sau cốt kể câu-truyện mang tính
sử-học rút từ đời sinh-hoạt của Đức Chúa ở Tin Mừng Thứ Ba.
Tin Mừng Thứ Ba, do ông
Luca nào đó soạn-tác, lại kết-thúc câu truyện bằng việc Đức Giêsu trỗi-dậy về với
Cha vào Lễ Phục-Sinh. Trong khi đó, tác-giả sách Công-vụ lại thâu-thập được mấu-chốt
cũng do ông Luca để lại, nhưng định-hình việc Ngài về với Cha và 40 ngày sau lần
Ngài trỗi-dậy, như Tin Mừng từng ghi ở đoạn 24 câu 50-51, rằng:
“Sau
đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và,
đang khi chúc lành, thì Ngài rời khỏi các ông và được đem về trời.”
Và, sách Công-vụ đoạn
1 câu 6 đến câu 11, lại đã viết:
“Bấy giờ
những người đang tụ họp ở đó hỏi Ngài rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là
lúc Thầy khôi-phục vương-quốc Israel không?" Ngài đáp: "Anh em không
cần biết thời-giờ và kỳ-hạn Chúa Cha đã toàn-quyền sắp-đặt, nhưng anh em sẽ nhận
được sức mạnh của Thánh-Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ
là chứng-nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho
đến tận-cùng trái đất."
“Nói
xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài,
khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên
trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và
nói: "Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng
vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy
Ngài về trời."
Cả hai đoạn trên đều hướng
về nhân-vật, là ông Thêôphilô nào đó không rõ xuất-xứ, như Tin Mừng đây lại cũng
ghi ở đoạn 1 câu 3, rõ ràng rằng:
“Tôi
cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên
tuần tự viết ra để kính tặng ngài;”
Hoặc, ở sách Công-vụ
Tông-đồ đoạn 1 câu 1 lại cũng thấy:
“Thưa
ngài Thêôphilô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường-thuật tất cả những việc Đức
Giêsu làm và những điều Ngài dạy, kể từ đầu cho tới ngày Ngài được rước về trời…”
Ngay từ đầu, sách
Công-vụ, đã định-hình Tin Mừng đây là “cuốn đầu tay” do ông Luca soạn tác. Sách
này, lại tường-trình đủ chi-tiết minh-bạch, về tiến-trình xê-dịch của Đức Chúa
từ năm 30 đến đầu niên-biểu 60 vào thế-kỷ đầu ở Palestine và Syria, trong đó
các thành-viên của nhóm đầu-tiên thành-lập đã nhận được danh-hiệu là nhóm đợi/chờ
Đấng Thiên-Sai, tức: các tín-hữu Đức Kitô
như có nói ở đoạn 11 câu 26, sau đây:
“Tìm được
rồi, ông đưa ông Saulô đến Antiôkia. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy
suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại Antiôkia mà lần đầu
tiên các môn-đệ được gọi là Kitô-hữu.”
Bằng sự/việc ông
Phaolô rao-giảng ở Tiểu Á và Hy-Lạp, câu truyện này là kết đoạn việc ông Phaolô
bị dẫn độ về Rôma như một tội-phạm và phải chờ hai năm ông mới được đưa ra toà La
Mã xét xử. Sự-kiện này, làm ngưng-trệ mọi chuyện ngay khi đó, mà chẳng thấy có bản
tường-trình nào về phiên toà và chẳng có lệnh xét xử nào được đưa ra hết.
Tuy nhiên, truyền-thống
trong Đạo lại cứ luôn nói rằng: sự việc trên diễn ra vào cuối triều-đại bạo-chúa
Nêrô kéo dài từ năm 54 đến 68, sau Công nguyên.
Cả Tin Mừng Thứ Ba lẫn
sách Công-Vụ, đều được các đấng bậc trong Đạo bảo rằng: sách này do ông Luca nào
đó, là tác-giả. Nhưng, hai bản văn trên, không đưa ra bằng-chứng nào xác-đáng hầu
hỗ-trợ cho truyền-thống ấy. Bằng cớ ta có sớm nhất, lại cho rằng: Tin Mừng Thứ
Ba và sách Công-vụ, là do thày thuốc Luca viết ra như văn-bản hiếm quí xuất từ kinh/sách
Muratôria. Bởi, tên của ông xuất-hiện trong danh-sách cổ như ở Tân-Ước từ năm 180,
sau Công nguyên.
Theo sách này, chỉ mỗi
danh-tánh thày thuốc Luca, là được đề-cập ở Tân Ước. Điều đó, có ý hiểu ngầm rằng:
ông Luca là thừa-tác-viên đồng-hành với ông Phaolô, như thư Côlôsê đoạn 4 câu
14, từng xác-chứng:
“Anh
Luca, thầy thuốc yêu quý, và anh Đêma gửi lời chào anh em.”
Nói cách khác, ông Luca-thày-thuốc,
là đấng bậc được ông Phaolô nhờ/cậy khi ông cần ứng-viên có kiến-thức để viết Tin
Mừng Thứ Ba và sách Công-vụ. Nhiều học-giả, lại công-khai phản-bác việc định-hình
tác-giả như thế. Sở dĩ có uẩn-khúc này, là vì có xung-đột tư-tưởng giữa sách
Công-Vụ và các đoạn tự-truyện được cho là do ông Phaolô soạn, như ta đã bàn ở
trang trước. Và, điều đặc-biệt là: không có chương/đoạn nào nói đến mâu-thuẫn về
giáo-huấn của ông Phaolô liên-quan đến thần-học làm nền, có mặt ở hai văn-kiện này.
Có học-giả, lại cũng kỳ-vọng
rằng: việc nối-kết sự việc này với chuyện ông Phaolô là người tạo nên văn-bản trên,
mới đúng. Dù vậy, sự kiện hai bản-văn trên xuất-hiện vào năm tháng/ngày giờ rõ như
thế, cho thấy: sách Công-vụ diễn-trình sự việc sau Tin Mừng Thứ Ba, tức: văn bản
này được coi là “sách đầu tay” của tác-giả Luca.
Tin Mừng Thứ Ba được
bảo, là do ông Luca-thày-thuốc nào đó lập từ thập-niên 90 đến 100 ở thế-kỷ đầu,
thôi. Nói thế có nghĩa: trong vòng không đầy nửa thế-kỷ, mọi sự-kiện đều được trình-kể,
ở trong đó. Dù, tính sử ở đây không đáng tin-cậy để ta coi đó như một trình-tự theo
năm tháng/ngày giờ, thì sách Công-vụ vẫn là sách hữu-ích để ta nắm bắt được việc
hình-thành Hội-thánh Chúa thuở đầu đời, trong đó các tín-hữu có niềm tin từ hậu
bán thế-kỷ thứ nhất, như đã được ghi trong sách sử của Đạo Chúa.
Danh-xưng Đức Giêsu
ở sách Công-vụ
Muốn dõi theo các mẫu/mã
đã có mặt khi ta truy-tầm diện-mạo Đức Giêsu theo ông Gioan Tin Mừng và ông Phaolô,
ta khởi-sự bằng việc khảo-sát xem danh-xưng gán cho Đức Kitô ở sách Công-vụ như
thế nào. Các danh-xưng đây, từng cho thấy: tác-giả sách Công-vụ có ý-định đặt Đức
Giêsu thấp hơn Đức Kitô của ông Phaolô (ở các thư) và ông Gioan (ở Tin Mừng),
nhưng lại đặt trên Đức Giêsu ở Tin Mừng Nhất Lãm.
Thật ra, ta còn nợ
sách Công-vụ biệt-danh “Người Tôi Tớ” hoặc “Bầy Tôi thánh” của Thiên-Chúa, như
Sách Công-vụ ghi ở đoạn 3 câu 13, 26; hoặc: đoạn 4 câu 27, sau đây:
“Thiên
Chúa của các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp, Thiên-Chúa của cha ông chúng ta,
đã tôn-vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối
bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha.”
Và:
“Thiên-Chúa
đã cho Tôi Trung của Ngài trỗi dậy để giúp anh em trước tiên, và sai đi chúc
phúc cho anh em, bằng cách làm cho mỗi người trong anh em lìa bỏ những tội ác của
mình."
Hoặc:
“Đúng vậy,
Hêrôđê, Phongxiô Philatô, cùng với chư dân và dân Israel đã toa-rập trong thành
này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu, Đấng Ngài đã xức dầu.”
Đây là danh-xưng tạm cốt
diễn-tả sự việc tên gọi của Đức Giêsu từng biến-dạng ở các văn bản về sau đưa
vào Tân-Ước. Đây, là danh-xưng do Kinh/Sách tạo vào thời hậu-Thánh-Kinh từng được
gán cho Abraham, Môsê, Đavít và các nhân-vật lành/thánh có vào thời-kỳ giữa Cựu
và Tân-ước. Ở Cảo Bản Biển Chết, người đọc lại cũng thấy các ngôn-sứ vẫn liên-tục
được gọi là “Tôi Tớ Chúa”.
“Tôi Tớ” nói ở đây, là
cách gọi theo “danh chính ngôn thuận” không phân-biệt ai được gọi như thế. Và, trong
lời cầu ở bản kinh được bảo là do ông Phêrô viết, lại cũng được gán cho các
tông-đồ và cho Đức Giêsu, như đoạn 4 câu 29-30, đã diễn-tả:
“Giờ
đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm-đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài
đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh-dạn. Xin giơ tay chữa lành, và thực-hiện
những dấu lạ điềm thiêng, nhân-danh tôi-tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu." Họ
cầu-nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung-chuyển; ai nấy đều được tràn-đầy
Thánh Thần và bắt đầu mạnh-dạn nói lời Thiên-Chúa.”
Biến-cải đặc-biệt nơi
ngôn-từ sách Công-Vụ, rõ ràng đã định-vị Đức Giêsu theo truyền-thống
Do-thái-giáo, giữa đấng-bậc lành/thánh thời quá-khứ của Kinh/Sách và giai-đoạn giao-thời
giữa Cựu-Ước và Tân-ước.
Tương-tự như thế, tưởng
cũng nên kể ra đây danh-hiệu mà sách này dùng cụm-từ “Đấng Công Chính” như đoạn
3 câu 14, hoặc đoạn 7 câu 52 cũng như đoạn 22 câu 14, lại ghi rõ:
“Anh em
đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân-xá cho một tên
sát-nhân.”
Hoặc:
“Có
ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng
Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng
ấy.
Và:
“Ông
nói: "Thiên-Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn
của Ngài, được thấy Đấng Công-Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra.”
Danh-xưng/tên gọi
mang tính thần-học ở mức tương-đối thấp, vẫn gọi Ngài là “Bậc thày dạy” nhưng không
thấy xuất-hiện ở sách Công-vụ. Và ở đây, vai-trò giảng-dạy của Đức Kitô đã gián-tiếp
hàm-ẩn cụm-từ “đồ-đệ Chúa”; cũng như
câu “Lời của Chúa”, từng được ghi ở
các Tin Mừng dù có nhiều điều chưa được kiểm-chứng, thế mà sách Công-vụ vẫn cứ
ghi như sau:
“Tôi sực
nhớ lại lời Chúa nói rằng: "Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh
em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần”
Và, đoạn 20 câu 35 lại
cũng bảo:
“Tôi
luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng
vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là
nhận."
Mãi sau này, Đức
Giêsu lại được định-danh như Ngôn-sứ vào lúc sớm sủa nhất khi các đấng bậc
trưng-dẫn chứng-cứ về Đạo Chúa mang tính Do-thái-giáo ở Palestine. Ở đây, sách
Công-vụ lại biểu-trưng truyền-thống quen-thuộc vẫn thấy ở Tin Mừng Nhất Lãm và Tin
Mừng của ông Gioan, nhưng vẫn xa lạ đối với ông Phaolô.
Kỳ thực, lập-trường
này sau đó đã diễn-bày văn bản của ông Gioan, trong đó Đức Giêsu được cho là Ngôn-sứ có tính quyết-định hoặc Ngôn-sứ cánh-chung được báo trước từ bài
giảng được cho là của ông Phêrô lập, trong đó Đức Giêsu là Môsê Thứ Hai sẽ
quang-lâm cùng lúc với Đấng Thiên-Sai. Thật ra thì, Đức Giêsu được tuyên-dương như
ông Môsê xưa đã nói, và như sách Công-vụ ghi ở đoạn 3 câu 22, rằng:
“Thật vậy,
ông Môsê đã nói: Từ giữa đồng bào của anh em, Đức Chúa là Thiên-Chúa của anh em
sẽ cho trỗi-dậy một ngôn-sứ như tôi để giúp anh em; tất cả những gì vị ấy nói với
anh em, anh em hãy nghe.”
Hoặc, chứng-từ Qumran
đoạn 4Q175 và sách Đệ Nhị Luật đoạn 18 câu 18 nói rằng:
“Từ giữa
anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ
đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả
những gì Ta truyền cho người ấy.”
Danh xưng “Con Người”
và “Con Thiên-Chúa”, là tên gọi khá sớm gặp ở Tin Mừng của ông Gioan, nhưng lại
không thấy ở sách Công-Vụ. Danh xưng này, đã đạt đỉnh cao chót vót nơi bài thuyết
giảng do phó-tế Stêphanô diễn-đạt trước mặt Sanhêdrin như sách Công-vụ đoạn 7
câu 56 lại đã ghi:
“Họ liền
kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông.”
Tầm nhìn, hướng về lời
tiên-tri nổi tiếng của Đức Giêsu trước thượng-tế Caipha, như Tin Mừng của ông
Luca ghi ở đoạn 22 câu 69 rằng:
“Nhưng
từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng."
Tuy nhiên, trong lúc
Tin Mừng Nhất Lãm cho là câu ấy do Đức Giêsu nói về chính Ngài, thì phó-tế Stêphanô
lại bảo đó là danh tánh Đức Giêsu. Vì lý-do này và do bởi danh xưng ấy được người
Do-thái-giáo diễn-tả bằng tiếng Hy-Lạp, một lần duy-nhất gọi Ngài là “Con Người”
ở Công-vụ. Và, điều này không cốt để phản-ánh ý-niệm của Giáo-hội Do-thái-giáo tiên-khởi
ở Giêrusalem từng có. Ta sẽ bàn rộng hơn về chủ-đề này ở chương kế tiếp.
Tự-vựng “Con Thiên Chúa” từng được coi là
danh-xưng tập-trung ở các sách Tin Mừng và ở thư của ông Phaolô, quả cũng tốt đẹp
hơn tên gọi “Con Người” ở sách Công-Vụ. Chỉ một lần duy-nhất được sử-dụng ở các
thư của ông Phaolô khi ông rao-giảng ở hội-đường Đamát vốn tuyên-xưng Đức Giêsu
là “Con Thiên-Chúa” như đoạn 9 câu 20
có nói đến:
“Rồi lập
tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con
Thiên Chúa”
Sau đó, là lần thứ
hai ông Phaolô sử-dụng danh-xưng này một cách gián-tiếp trong một bài thuyết-giảng
ở hội-đường Do-thái-giáo Antiôkia xứ Pisiđia khi đó ông giải-thích thánh vịnh thứ
2 câu 7, trong đó nói: “Con là Con ta,
hôm nay Ta sinh ra Con” như đoạn 13 câu 33, tác-giả áp-dụng vào Đức Giêsu
như sau:
“Điều
Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người thực-hiện cho chúng ta là con
cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh
vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.”
“Đức
Chúa” là
tên gọi được tác-giả Luca-thày-thuốc dùng thường xuyên hơn để chỉ Đức Giêsu.
Trong khi sách Công-Vụ mãi đến thời Hội-thánh tiên-khởi mới dùng tên gọi này, được
áp-dụng cho Ngài như cách-thức được tông-đồ xưng-hô trước khi Ngài về với Cha,
hệt như đoạn 1 câu 6 của sách từng trích-dẫn sau đây:
“Bấy giờ
những người đang tụ-họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ
là lúc Thầy khôi-phục vương-quốc Israel không?"
Đây, là lối diễn-tả
thị-kiến của đấng thánh tử-vì-đạo là Phó tế Stêphanô và tầm-nhìn của ông Phaolô
trên đường Đamát ngõ hầu kêu cầu Đức Kitô trên cao như đoạn 7 câu 59 và đoạn 9
câu 5 từng nói đến:
“Họ ném
đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin: "Lạy Đức Giêsu, xin nhận lấy hồn
con."
Và ở đoạn 9 câu 5 lại
thấy bảo:
“Ông
nói: "Thưa Ngài, Ngài là ai? "Người đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi
đang bắt bớ.”
Tuy vậy, ở phần lớn
các tình-huống khác, danh-xưng “Đưc Chúa” là cốt để diễn-tả sự tôn-kính mà chẳng
cần định-nghĩa gì rõ rệt hơn. Dù sao thì, đây cũng là lý-do cho thấy tại sao
sách Công-Vụ lại dùng tên gọi này trước cả Tin Mừng Nhất Lãm trong một số
chương/đoạn nói rõ Đấng mang tên này đã trỗi-dậy từ cõi chết để ứng-nghiệm lời
Cựu-Ước đã nói trước như đoạn 2 câu 31 và đoạn 4 câu 33 đã chứng-minh:
“Chúa
đã thề với người là sẽ đặt một người trong giòng dõi- trên ngai vàng của Ngài,
nên Ngài đã thấy trước và loan-báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Ngài đã
không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Ngài không phải hư-nát.”
Và:
“Nhờ
quyền-năng mạnh-mẽ Thiên-Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại.
Và Thiên-Chúa ban cho tất cả các ông dồi-dào ân-sủng.”
Làm như thế, tác-giả
muốn biểu-lộ đối-tượng của niềm tin đã kéo theo quà tặng của Thần-Khí coi đó
như cội-nguồn ơn cứu-độ, hệt như đoạn 11 câu 17, cùng đoạn 16 câu 31 và đoạn 20
câu 21 đã xác-chứng:
“Vậy, nếu
Thiên-Chúa đã ban cho họ cùng một ân-huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì
chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn-cản
Thiên-Chúa?"
Và:
“Hai
ông đáp: "Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ."
Cũng như câu:
“Tôi đã
khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin
vào Đức Giê-su, Chúa chúng ta.”
Xem thế thì, ông
Phaolô của sách Công-vụ đã nhận-lãnh thừa-tác-vụ từ Giêsu Đức Chúa như đoạn 20
câu 24 lại đã nói:
“Nhưng
mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường,
chu-toàn chức-vụ tôi đã nhận từ Đức Giêsu, là long-trọng làm chứng cho Tin Mừng
về ân-sủng của Thiên-Chúa.”
Và, khi bị giam tại
Rôma, ông đã cống-hiến hết mình vào việc rao giảng về “Đức Giêsu Kitô là Chúa”
mà ông chuẩn-bị để chết cho danh-xưng này của Ngài, như sách Công-vụ đoạn 21
câu 13 lại vẫn bảo:
“Bấy giờ
ông Phao-lô trả lời: "Có gì mà anh em phải khóc và làm tan nát trái tim
tôi? Phần tôi, tôi sẵn-sàng không những để cho người ta trói, mà còn chịu chết
tại Giêrusalem vì danh Chúa Giêsu.”
Và, một khi danh-xưng
“Chúa” được coi như tương-đương với Đức Kitô, tức: Đấng được xức dầu như đoạn 2
câu 36 từng chứng-tỏ:
“Vậy
toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập-giá,
Thiên-Chúa đã đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đức Kitô."
Xem thế thì, vận-động
ban đầu cho Đức Giêsu đã dứt-khoát đặt Ngài vào cương-vị Đấng Thiên-Sai dù
không để làm vua/quan lãnh chúa gì hết. Quả là chuyện đáng kể khi thấy ở vào
cơ-hội duy-nhất khi tác-giả viết sách Công vụ đã tìm cách định-hình những gì
ông muốn diễn-tả ngang qua danh-xưng Thiên-Sai, là ông đã phác-hoạ Đức Giêsu một
cách rõ ràng Ngài là Đấng có tài làm sự lạ như Công-vụ đoạn 10 câu 38 vẫn còn
ghi:
“Quý vị
biết rõ: Đức Giêsu xuất-thân từ Nadarét, Thiên-Chúa đã dùng Thánh-Thần và quyền-năng
mà xức dầu tấn-phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi-ân giáng-phúc tới đó, và chữa
lành mọi kẻ bị ma quỷ kềm-chế, bởi Thiên-Chúa ở với Ngài.”
Thật sự thì, chức-năng
đặc-biệt của Đức Giêsu-là-Chúa đã xuất tự lời Thiên-Chúa tuyên-dương Ngài.
Tuyên-dương này, tựa như việc định-danh Ngài là “Con Thiên Chiên-Chúa có uy-lực”
theo ngôn-từ được ông Phaolô xác-chứng ở thư Rôma đoạn 1 câu 3 sau đây:
“Đó là
Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.”
Việc định-danh Ngài,
theo sau lần Ngài trỗi-dậy được Thiên-Chúa tuyên-dương như sách Công-vụ đoạn
câu 32-36, lại nói thêm như sau:
“Chính
Đức Giêsu đó, Thiên-Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin
làm chứng. Thiên-Chúa Cha đã ra tay uy-quyền nâng Ngài lên, trao cho Ngài
Thánh-Thần đã hứa, để Ngài đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe. Thật
vậy, vua Đavít đã chẳng lên trời, thế mà lại nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng
tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch-thù, Cha sẽ đặt làm bệ
dưới chân Con. Vậy toàn-thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà
anh em đã treo trên thập-giá, Thiên-Chúa đã đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đức
Kitô."
Đoạn viết ở trên hàm ẩn
một xác-định vốn bảo rằng: Chức-năng Kitô và là Chúa theo nghĩa trọn-vẹn được nối-kết
không phải với những gì ở dưới đất nhưng là với Đức Giêsu quang vinh ngự bên cạnh
Chúa Cha trên ngai vàng ở thiên-quốc. Cũng từ chốn trên cao ấy, Ngài sẽ trở lại
như Đấng Thiên Sai được thiết-lập cho anh em tức những người Do-thái-giáo vào
thời buổi do Thiên Chúa định-đoạt như sách Công-vụ đoạn 3 câu 20-21 còn khẳng-định:
“Như vậy
thời-kỳ an-lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Ngài sai Đức Kitô Ngài đã
dành cho anh em, là Đức Giêsu. Đức Giêsu còn phải được giữ lại trên trời, cho đến
thời phục-hồi vạn-vật, thời mà Thiên-Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn-sứ của
Ngài mà loan-báo tự ngàn xưa.”
Tác-giả sách Công-vụ
đã coi sự-nghiệp Đức Giêsu như bao gộp 2 phân nửa: nửa đầu, về tình-trạng Ngài được
nhắc lên cao kể từ ngày Ngài trỗi-dậy cho đến ngày Ngài tái-lâm, mà trước đó lại
có sứ-vụ lịch-sử của “người con miền Nadarét” từng được định rõ bằng “hoạt-động
đầy quyền-năng và các dấu chỉ cũng như các việc tuyệt-diệu” Ngài làm, mà sách
Công-vụ diễn-tả ở đoạn 2 câu 22 đánh dấu bằng một kết-cuộc rất quang-vinh như sau:
“Thưa đồng
bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Nadarét, là người đã được
Thiên-Chúa phái đến với anh em. Và để chứng-thực sứ-mệnh của Ngài, Thiên-Chúa
đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em
biết điều đó.”
Ý-niệm về một Đức
Giêsu mang tính vua quan chiến-thắng đang đến trước Đức Kitô quang-vinh tạo ngộ-nhận
cho người Do-thái-giáo bình-dị và sức ép lớn cho các tông-đồ khi rao-giảng vào
những ngày đầu nhằm giải-thích/minh-xác nỗi khổ, cái chết và sự trỗi dậy của Đức
Giêsu. Vì, đây không là sự việc mà người Do-thái-giáo kỳ-vọng vào chức-năng của
Đấng Thiên-Sai.
Kỳ thực, thì tác-giả
sách Công-vụ đã khiến cả ông Phêrô lẫn Phaolô khẳng-định một cách mạnh-mẽ rằng
cái chết thảm-khốc của Đức Kitô theo sau sự toàn-thắng là thành-phần của di-sản
do các ngôn-sứ để lại cho dù người Do-thái-giáo chừng như quên mất nó. Đó là điều
được sách Công-vụ xác-định ở các đoạn 3 câu 18, đoạn 17 câu 3 và đoạn 26 câu
23, sau đây:
“Nhưng,
như vậy là Thiên-Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn-sứ
mà báo trước, đó là: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ-hình.”
Và:
“Dựa
vào Kinh Thánh, ông3 giải thích và xác định rằng Đức Kitô phải chịu
khổ-hình và sống lại từ cõi chết; ông nói: "Đức Kitô ấy, chính là Đức
Giêsu mà tôi rao-giảng cho anh em.”
Hoặc:
“Tôi
không nói gì khác ngoài những điều các ngôn sứ và ông Môsê đã báo trước sẽ xảy
ra, đó là: Đức Kitô sẽ chịu đau-khổ và là người đầu-tiên sống lại từ cõi chết,
để loan-báo ánh-sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân ngoại."
(còn tiếp)
Gs Geza
Vermes biên-soạn
–
Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment